Pháp giới vũ trụ: Tâm và vật
MIKE AUSTIN : Ngài nhìn thấy sự tiến hóa của nhân loại đang ở giai đoạn nào? Chẳng hạn, nếu so sánh toàn thể nhân loại như sự phát triển của một người, thì ngài cho rằng chúng ta đang ở trong thời kỳ trẻ thơ, niên thiếu hay trưởng thành?
ĐẠT-LAI LẠT-MA : Theo phần giáo lý chung của đạo Phật được ghi trong kinh điển, thế giới này có những giai đoạn tốt hơn và có có những giai đoạn xấu hơn. Nay nếu bạn nói về thời gian của một kiếp, [1] thì kỉ nguyên của chúng ta vẫn còn là trẻ thơ; nhưng nếu xét trong một khoảng thời gian ngắn hơn thì chúng ta đã già. Tôi sẽ giải thích điều này.
Theo A-tỳ-đạt-ma Câu-xá luận, [2] một đại kiếp gồm 80 trung kiếp, chia làm 4 nhóm 20 trung kiếp. Nhóm 20 trung kiếp thứ nhất là kiếp không. Kiếp không là sự trống rỗng hoàn toàn khi thế giới hệ trước đó không còn tồn tại. Sau đó là 20 trung kiếp của kiếp thành, tức là thời kỳ hình thành của thế giới. Kế đến là 20 trung kiếp của kiếp trụ. Tiếp theo là 20 trung kiếp của kiếp hoại. Hiện nay chúng ta đang ở trong Kiếp trụ. Trong khoảng 20 trung kiếp của kiếp trụ, chúng ta đang ở vào thời kỳ đầu của kiếp giảm. Vì thế, khi kiếp này giảm, sẽ có 18 lần tăng và 18 lần giảm. Rồi lại tiếp tục nhóm 20 trung kiếp sau đó.
Nay chúng ta đang ở trong lần giảm thứ nhất, đến mức mà tuổi thọ trung bình của con người còn khoảng 100 tuổi. Trong ý nghĩa thời kỳ đầu của kiếp giảm thì chúng ta đã qua lâu rồi, bởi vậy nên gọi là già. Nhưng với ý nghĩa của 20 kiếp trụ thì chúng ta chỉ mới ở giai đoạn đầu.
MIKE AUSTIN : Có phải quan điểm tổng quát này chỉ xuất phát từ kinh điển?
ĐẠT-LAI LẠT-MA : Đúng vậy.
MIKE AUSTIN : Phải chăng đó là căn cứ duy nhất cho cách mô tả như thế này về không gian và thời gian?
ĐẠT-LAI LẠT-MA : Tôi cho là vậy. Có lẽ chỉ là dựa vào kinh điển. Nhưng chẳng cần nói đến những khái niệm về “kiếp” này, ngay như việc giải thích về một ngôi sao gần nhất theo khoa học cũng đã là khó khăn. Quả thật là rất khó!
MIKE AUSTIN : Ngài muốn nói việc xác định vị trí hoặc mô tả hình thể?
ĐẠT-LAI LẠT-MA : Không, tôi muốn nói đến nguyên nhân hình thành thực sự hay những điều tương tự... Điều tôi đang nói đến lại là một thế giới hệ nằm trong cả nghìn tỉ [1] thế giới, giống như giải thích về một thái dương hệ.
MIKE AUSTIN : Vâng! Vậy xin được đi ngay vào vấn đề. Phật giáo quan niệm như thế nào về nguồn gốc vũ trụ?
ĐẠT-LAI LẠT-MA : Về mặt vật thể, đó chính là năng lượng. Còn xét về các sinh vật hoặc con người sống trong đó thì nguồn lực tạo ra đời sống của mỗi chúng sinh chính là nghiệp lực của những hành vi mà chúng sinh ấy đã tích tạo. Nghiệp lực là nguyên nhân khiến chúng sinh phải tái sinh theo hình thức nào đó.
MIKE AUSTIN : Hãy xem xét trước hết vấn đề vật chất. Vật chất vốn vô tri. Cái gì là năng lượng khiến cho có các hiện tượng xuất hiện?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Về các yếu tố cấu thành vũ trụ, [2] yếu tố ban đầu là gió (phong đại), có nền tảng từ hư không. Rồi gió chuyển động, và dựa vào đó mà hơi nóng xuất hiện (hỏa đại), rồi có hơi nước (thủy đại), rồi chất rắn, chính là yếu tố đất (địa đại). Nếu bạn cần giải thích yếu tố gió ban sơ tương tục từ cái gì, thì có lẽ nó có từ thời kỳ kiếp không của thế giới hệ trước đó.
Dù sao đi nữa thì vũ trụ vẫn là vô cùng, vô hạn. Nếu bạn chỉ đề cập đến một thế giới trong phạm vi của thế giới hệ [1] gồm cả ngàn tỷ thế giới thì có thể nói về một sự khởi nguyên. Còn như đề cập chung đến toàn thể vũ trụ thì không thể được.
MIKE AUSTIN : Nhưng cái gì là nguyên nhân trực tiếp khởi đầu của hư không; và sau đó là của yếu tố gió hay năng lượng mà ngài đề cập đến?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Nếu nói về nguyên nhân đến từ bên ngoài, thì như tôi đã trình bày, đó là thời kỳ kiếp không của thế giới hệ trước đó.
MIKE AUSTIN: Năng lượng có thể tự nhiên sinh khởi từ hư không?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Điều đó là tự nhiên, không phải do bịa đặt, nhưng đằng sau đó còn có nghiệp lực.
MIKE AUSTIN: Nghiệp lực ấy là gì?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Tất nhiên là cần phải giải thích về nghiệp. Nghiệp có nghĩa là hành vi tạo tác. Chẳng hạn như tôi đang nói, đó là hành vi tạo tác bằng lời nói (khẩu nghiệp). Khi tôi đưa bàn tay lên, đó là hành vi tạo tác của thân (thân nghiệp). Còn có sự tạo tác bằng tâm ý (ý nghiệp), đó là những trường hợp tạo tác mà không hề có bất cứ sự biểu hiện nào của thân hay lời nói.
Do những hành vi tạo tác này mà dẫn đến những hậu quả tức thời và lâu dài. Chẳng hạn như cuộc nói chuyện của chúng ta tạo ra được một bầu không khí giao tiếp nơi đây, và đó là kết quả tức thì. Tuy nhiên, cuộc nói chuyện của chúng ta cũng đồng thời khơi dậy một sức mạnh tinh thần, hoặc tạo ra một ấn tượng trong sự tương tục của tâm thức. Do những dấu ấn này mà sẽ có thêm những hành vi thiện, ác và không thiện không ác (vô ký), rất lâu sau khi những hành vi tạo tác ban đầu đã chấm dứt.
Do đó mà có các nghiệp thiện, nghiệp ác và nghiệp không thiện không ác. Lại có một trạng thái dừng chờ - khi hành vi tạo tác đã dừng hẳn – và trạng thái này tồn tại trong dòng tâm thức tương tục. Trạng thái dừng chờ này là một sự tĩnh tại có tác động - một sự vắng bặt có hàm chứa tác nhân. Đó là một năng lực khi hành vi tạo tác không đơn thuần là hoàn toàn dừng hẳn mà vẫn còn có khả năng tạo ra những kết quả trong tương lai. Những trạng thái dừng chờ này có khả năng tự phục hoạt từng sát-na cho đến khi kết quả được hình thành. Khi hội đủ những điều kiện thích hợp (duyên), nó sẽ chín muồi, tạo ra quả. Cho dù trải qua thời gian lâu dài hay ngắn ngủi cũng không khác gì nhau. Thậm chí có thể là qua hàng tỷ kiếp. Nếu con người không nương nhờ vào một phương tiện để hóa giải tiềm lực này - chẳng hạn như sám hối và phát nguyện không làm những việc ác - thì nghiệp lực này vẫn tồn tại.
MIKE AUSTIN: Nghiệp lực tồn tại ở đâu?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Trong dòng tương tục của tâm thức. Có hai cơ sở để giải thích cho sự tồn tại của nghiệp lực. Một là dòng tương tục của tâm thức vốn mang tính tạm thời. Và hai là cái ‘tôi’, cái bản ngã tương đối của một con người, vốn mang tính tương tục.
Ghi thay lời tựa, trích “Vầng Sáng Từ Phương Đông” Nội dung đọc web đang cập nhật. Xin vui lòng đọc và tải PDF tại đây: https://lienhoaquang.com/thu-vien_VANG-SANG-TU-PHUONG-DONG_csscmtt_xem-PDF_tuequang.html