Ba Khác Biệt Cần Biết để Thực Hành Giáo Pháp Chân Chính
Khenpo Tsultrim Lordo
Trong buổi giảng Pháp hôm nay, chúng ta sẽ kiểm tra chi tiết hơn về những khác biệt giữa Phật giáo và ngoại đạo (phi-Phật giáo), các thực hành thế gian và xuất thế gian và cuối cùng, Phật giáo Đại thừa và Nguyên thủy Theravada. Những câu hỏi liên quan đến ba sự khác biệt này có vẻ khá dễ với vài người, nhưng câu trả lời có thể không rõ ràng với tất cả. Với người muốn thực hành Giáo Pháp chân chính, việc trước hết là phải hiểu được những câu trả lời cho các hỏi này, và đây là điều bắt buộc, bởi những câu trả lời khác nhau sẽ tạo ra những kết quả rất khác nhau trong bất cứ hành động nào mà họ thực hành, dù đó là các thiện hạnh hay chỉ là việc ngồi xuống thiền định.
Sự khác biệt giữa ngoại đạo và Phật giáoNói chung tri kiến, thực hành và hành vi của các truyền thống phi-Phật giáo (ngoại đạo) và truyền thống Phật giáo đều khác biệt và kết quả thì cũng vậy. Điểm khác biệt chính yếu nằm ở chỗ liệu người ta có quy y Tam Bảo – Phật, Pháp và Tăng hay không. Người quy y thì thuộc về Phật giáo; nếu không thì là ngoại đạo.
Mặc dù các niềm tin phi-Phật giáo cũng tuyên bố vài quan niệm về tính Không, họ không thể giải thích bản tính trống rỗng của mọi hiện tượng dựa trên duyên khởi. Ý tưởng của họ về tính Không chỉ là vài kiểu tính Không đơn giản, không giống như - tính Không bất khả phân với các hiện tượng. Ví dụ, vài vị ngoại đạo cũng chỉ ra rằng điều mà chúng ta thấy bằng mắt và nghe bằng tai đều là hư huyễn. Tuy nhiên, phần lớn các tư tưởng của họ về tính Không chỉ thuần túy là sự không có gì cả, và [cách giải thích] này thì hoàn toàn thờ ơ với [sự hiện hữu của] các hiện tượng. Đây cũng không phải tính Không mà Tổ Long Thọ và những đạo sư đồng quan điểm giảng dạy, cũng không phải là điều được thuyết giảng bởi Tổ Vô Trước (Asanga) và chư vị, bởi tính Không ở đây phải là sự bất khả phân với sự thấu suốt (tánh rõ biết) chói ngời. Tính Không của ngoại đạo nghĩa đơn giản là không-tồn tại (không hiện hữu), chỉ giống như đầu người thì không có sừng, và điều này không phải là ý nghĩa thực sự của tính Không trong Phật giáo. Nhưng tư tưởng về tính Không của ngoại đạo, thật đáng tiếc, chỉ là điều đơn giản như vậy.
Đó là tri kiến chính yếu của các vị ngoại đạo trong thời kỳ của Đức Thích Ca Mâu Ni Phật. Sau đó, khi Hồi giáo tràn khắp Ấn Độ, một số những thánh địa Phật giáo quan trọng nhất, chẳng hạn Tu viện Nalanda và Vikramasila (Giới Luật Viện) bị phá hủy. Kết quả là, một vài trường phái ngoại đạo bắt đầu chấp nhận những học thuyết Phật giáo nhất định, khiến cho giáo lý ngoại đạo bị trộn lẫn với nhiều giáo lý Phật Đà. Tuy nhiên, cho đến nay, không trường phái nào trong số này có thể chứng ngộ tính Không vượt khỏi quan niệm về “vô-ngã”.
Dẫu sao, sự khác biệt quan trọng và then chốt nhất giữa Phật giáo và ngoại đạo nằm ở việc Quy y Tam Bảo. Do đó, Quy y được xem là điều kiện tiên quyết cho bất kỳ ai muốn học hỏi Phật giáo. Tuy vậy, việc quy y không bao giờ được ép buộc lên bất cứ ai. Chỉ những người muốn nghiên cứu giáo lý Phật Đà hoặc bắt đầu thực hành Phật giáo mới phải làm theo. Không quy y là duy trì làm người ngoài cuộc, không bước vào con đường giải thoát và không thể được xem là một Phật tử.
Sự khác biệt giữa thực hành thế gian và thực hành xuất thế gianNgày nay, ở cả Trung Hoa và Tây Tạng, nhiều người tự xem mình là Phật tử, dù là hành giả cư sĩ hay tu sĩ. Họ thường tham gia vào các hoạt động như phóng sinh hay lễ lạy và thực hành năm pháp tu sơ khởi siêu việt. Nhiều người cảm thấy tự hào rằng họ hành trì mỗi ngày. Tuy nhiên, nếu bạn quan sát kỹ lưỡng về động cơ, bạn sẽ thấy rằng một số người thực hành chỉ vì lợi lạc của bản thân trong đời này, chẳng hạn khỏe mạnh, sống lâu hay xua tan chướng ngại trong đời sống. Số khác thì lại hy vọng sẽ có được tái sinh thuận lợi ở cõi trời hay cõi người chỉ bởi họ sợ khổ đau trong ba cõi thấp (địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh). Nhưng bất cứ sự thực hành nào được tiến hành với những động cơ tự lợi như vậy thì giỏi lắm cũng chỉ được xem là một thực hành thế gian.
Hơn thế nữa, chúng ta cũng không nên nghĩ rằng thắp hương và lễ lạy là thế gian, trong khi lắng nghe giáo lý về Trung Đạo hay Đại Viên Mãn mới là xuất thế gian. Sự khác biệt giữa hai điều này không phải chỉ là về hình tướng.
Hãy lấy ví dụ về việc cúng dường đèn bơ lên Tam Bảo. Với cùng đối tượng của sự cúng dường, hành động cúng dường và người cúng dường, việc thực hành sẽ là việc thế gian khi sự xả ly không được sinh khởi và mục đích của sự cúng dường là đạt được những lợi lạc thế gian như mạnh khỏe, trường thọ, thăng tiến công việc, của cải hay tương tự, hoặc để có được một sự tái sinh thuận lợi. Trái lại, cúng dường đèn bơ vì hạnh xả ly chân chính và mong cầu giải thoát khỏi luân hồi sẽ được xem là hiện tượng xuất thế gian. Vì thế, thước đo để phân biệt giữa thế gian với xuất thế gian là liệu họ có từ bỏ những theo đuổi thế gian hay không.
Đại Viên Mãn tự nó được xem là xuất thế gian, nhưng động cơ thực hành hay việc lắng nghe giáo lý của chúng ta có thể biến điều ấy trở thành sự thực hành thế gian. Nếu động cơ của chúng ta là có được lợi lạc trong đời này hay đời sau, thì giáo lý Đại Viên Mãn sẽ không còn là một pháp xuất thế gian khi bước vào dòng tâm thức chúng ta; [và nếu thế thì] Đại Viên Mãn thậm chí còn chẳng phải là một pháp thực hành Đại thừa. Vậy sẽ ra sao? Rốt cuộc lại cũng sẽ chỉ là một pháp thế gian hay một [hình thức] thực hành Đại Viên Mãn thế gian.
Vậy phóng sinh là kiểu thực hành gì? Điều đó cũng phụ thuộc vào động cơ của chúng ta. Cho dù động cơ là để tái sinh trong cõi trời hay cõi người, hoặc tránh đọa vào ba cõi thấp chứ không phải là mạnh khỏe hay trường thọ trong đời này, phóng sinh cũng chỉ là một hoạt động thế gian. Sử dụng động cơ làm tiêu chuẩn, giải phóng sinh vật vì sự giải thoát của chính mình khỏi luân hồi được xem là một thực hành Tiểu thừa xuất thế gian. Nhưng nếu làm thế vì Bồ đề tâm, mong ước đạt Phật quả vì lợi lạc của mọi hữu tình chúng sinh, đó là thực hành Đại thừa xuất thế gian. Kết hợp thực hành Đại thừa với vài tri kiến Kim Cương thừa sẽ khiến phóng sinh trở thành một thực hành Kim Cương thừa.
Vì thế, chúng ta cần cẩn thận kiểm tra và tự hỏi bản thân, “Mục đích của việc nhiều năm tháng tham gia phóng sinh là gì? Có phải mình làm như thế vì lợi lạc của riêng mình?” Nếu mục đích là đạt Phật quả vì lợi lạc của mọi hữu tình chúng sinh, thì không nghi ngờ gì nữa, hành động của chúng ta là một sự thực hành xuất thế gian. Nếu chúng ta giải thoát các sinh vật với hy vọng bản thân được trường thọ hay để đạt được một sự tái sinh làm người mạnh khỏe, sống lâu, hay để vãng sinh về Tịnh Độ của Đức A Di Đà vì lợi lạc bản thân, thì người thụ hưởng thực sự chỉ là chính chúng ta, trong khi [bề ngoài] thì có vẻ như các sinh vật đang được giúp đỡ do bởi các hành động của chúng ta.
Các hành động khác cũng cần được quán sát theo cách này. Liệu khi ta đến một Phật học viện hay những nơi khác để thọ nhận quán đỉnh hay giáo lý Phật Đà là sự thực hành thế gian hay xuất thế gian? Như chúng ta vừa nói, nếu vì lợi lạc của chính chúng ta hoặc để tránh khổ đau vật lý hay tinh thần trong đời này hoặc các đời tương lai, thì đây là một sự thực hành thế gian. Tại sao? Bởi vì hành động của chúng ta đến từ động cơ thế gian. Nói rõ hơn, mọi ý nghĩ và hành động được xem là thế gian nếu chúng có động cơ như vậy.
Còn thực hành xuất thế gian là gì? Chúng ta có thể phân biệt giữa thế gian và xuất thế gian? Các thực hành xuất thế gian nằm ở cả hai truyền thống Đại thừa và Tiểu thừa. Nhiều người thường không biết nhưng thậm chí thực hành Tiểu thừa cũng đòi hỏi hạnh xả ly như một điều kiện tiên quyết. Khi những thiện hạnh được thực hiện vì tâm xả ly đích thực, chúng là sự thực hành xuất thế gian.
Từ “xả ly” ở đây nghĩa là gì? Đầu tiên, xả ly là từ bỏ mọi mối bận tâm thế tục. Nói cách khác, xả ly nghĩa là không có bất cứ bám víu nào với các vấn đề thế gian và đồng thời, biết rõ ràng về bản tính khổ đau của luân hồi. Thứ hai, hành giả cần nỗ lực tìm kiếm sự giải thoát khỏi mọi khổ đau.
Sống cuộc đời “xả ly” như một vị Tăng hay Ni bao hàm ý nghĩa tương tự với việc chúng ta phải để lại nhà cửa ở đằng sau để tìm kiếm giải thoát rốt ráo. Nhà ở đây nghĩa là thế giới thế tục. Sẽ là không phải từ bỏ mọi bám víu thế gian nếu chỉ bước khỏi nhà và khoác lên mình bộ y tu sĩ mà cần phải phát triển cảm giác thực sự chán ghét luân hồi.
Với người thường, vun bồi hạnh xả ly cũng có nghĩa là không thèm muốn những vật thế gian. Ngoại đạo cũng vun bồi hạnh xả ly. Nhiều vị tu sĩ hay tăng lữ phi-Phật giáo cũng không muốn tồn tại trong luân hồi. Họ cũng mong cầu giải thoát. Tuy nhiên, nếu thiếu chính kiến thì điều đó không được xem là xả ly thực sự. Vậy chính kiến là gì?
Đó là sự xác quyết vững chắc về khổ đau là bản chất của luân hồi đến mức người ta không còn nuôi dưỡng bất cứ ham muốn nào về luân hồi và thành tâm mong cầu giải thoát. Cùng lúc, họ cũng cần vun bồi trí tuệ siêu việt, là điều tiềm ẩn trong sự giải thoát rốt ráo. Mong cầu giải thoát một cách mù quáng mà không hiểu được trí tuệ vốn sẵn có thì sẽ không đem đến sự xả ly trọn vẹn. Tứ Diệu Đế của truyền thống Tiểu thừa là một phần của trí tuệ này. Và sự xả ly trọn vẹn đòi hỏi việc thẩm thấu Tứ Diệu Đế.
Khi đã phát triển được sự xả ly chân chính, mọi thiện hạnh mà chúng ta làm sẽ đều là xuất thế gian. A-tì- đạt-ma-câu-xá luận nói rằng hành giả bước vào con đường Tiểu thừa sau khi đã vun bồi thành công hạnh xả ly. Ở đây, bước vào con đường nghĩa là bắt đầu bước đầu tiên trong việc tu học truyền thống Tiểu thừa. Nó cho thấy tầm quan trọng của sự xả ly.
Bốn pháp thực hành sơ khởi phổ thông, tức quán chiếu về tính quý giá của thân người, sự vô thường của các hiện tượng, bản tính khổ đau của luân hồi và nhân quả không sai lầm, là một thực hành rất có lợi cho việc vun bồi sự xả ly. Nhưng có nhiều người được gọi là Phật tử đã miễn cưỡng thực hành các pháp tu sơ khởi, đặc biệt là pháp tu phổ thông này. Thay vào đó, họ muốn bỏ qua tất cả và đi thẳng vào phần thực hành Đại Viên Mãn, Đại Thủ Ấn và những giáo lý sâu xa tương tự. Thành thật mà nói, không riêng gì tu sĩ Tây Tạng, xu hướng này còn phổ biến hơn nhiều với Phật tử cư sĩ Trung Hoa. Đại Viên Mãn và Đại Thủ Ấn thực sự là những pháp tu tối thắng. Điều cần xem xét là liệu chúng ta có đủ căn cơ và tâm thức đã được chuyển hóa một cách thích hợp hay chưa. Chúng ta không thể hy vọng sẽ thành công trong bất cứ sự thực hành nào nếu không thể đưa ra câu trả lời tích cực cho hai câu hỏi này.
Sau đấy, chúng ta có thể sử dụng phương pháp nào để rèn luyện tâm thức? Đó là không nên xem nhẹ bốn pháp thực hành sơ khởi phổ thông và tầm quan trọng của chúng. Nhiều thế kỷ trước, Tôn giả Atisha và nhiều hành giả lỗi lạc khác ở Tây Tạng đạt thành tựu tối thắng chỉ từ việc quán chiếu về thân người quý giá và về vô thường trong suốt cả cuộc đời. Chư vị là những mẫu mực quan trọng và chúng ta cần noi theo. Những ai không sẵn lòng thực hành các pháp tu sơ khởi nhưng lại hy vọng sẽ tiến xa chỉ trong lần thử nghiệm đầu tiên thì sẽ chẳng bao giờ đạt được đích giải thoát cuối cùng, như thể họ bị ngăn không thể đến được đích bởi vô số những ngọn núi [chướng ngại].
Ví dụ sau đây sẽ minh chứng rõ hơn điểm này. Ngày xưa từng có một đạo sư chứng ngộ. Một học trò đến gặp Ngài để thỉnh cầu các chỉ dẫn sâu xa hơn trước khi rời đi. Vị đạo sư nói rằng: “Ta chẳng có giáo lý nào tốt hơn.” Sau khi cúng dường tất cả tài sản lên bậc thầy, anh ta lại cầu khẩn. Vị thầy, cầm tay học trò, nói chân thật: “Con sẽ chết. Ta cũng sẽ chết. Hãy dành thời gian để quán chiếu về điều này. Thầy ta đã dạy ta điều này và đó là điều ta đã thực hành. Thầy ta chẳng trao cho ta giáo lý nào khác, ta cũng chẳng thực hành điều gì khác. Đó là chỉ dẫn then chốt tốt nhất mà ta biết. Bây giờ hãy đi đi và hãy thực hành tinh tấn!”
Nó thực sự đơn giản như vậy đấy. Bạn sẽ chết và tôi cũng sẽ chết. Chúng ta đều biết sự thật không thể tranh cãi này, nhưng dường như cứ cố quên nó đi. Mỗi người chúng ta cần quán chiếu sâu sắc về giáo lý này bởi nếu không, chẳng điều gì sẽ đến từ sự thực hành của chúng ta.
Nhiều người tin chắc rằng điều mà họ thực hành cần có bản tính xuất thế gian. Nhưng làm sao có thể không xuất thế gian cho được nếu họ đang thực hành năm pháp tu sơ khởi siêu việt? Thực sự, năm pháp tu sơ khởi này không chỉ có bản chất của xuất thế gian mà còn là một phần của việc thực hành Đại thừa. Tuy nhiên, chìa khóa ở đây, trong bất kỳ trường hợp nào, là bạn cần phải trưởng dưỡng loại quan điểm nào khi bạn ngồi xuống thực hành các pháp tu sơ khởi này. Mặc dù chưa chắc gì chúng ta đang thực hành chỉ là vì lợi lạc cho riêng đời này, nhưng cũng rất có thể chúng ta thực hành những pháp tu này chỉ là để tránh đọa địa ngục. Nếu động cơ không phải là mong cầu giải thoát vì lợi lạc của mọi hữu tình chúng sinh, thì thực hành năm pháp tu sơ khởi sẽ được xem là thế gian chứ không phải xuất thế gian. Trong trường hợp đó, sẽ chẳng có ý nghĩa gì khi thực hành năm pháp tu sơ khởi này. Chúng ta đều biết rằng trì tụng thần chú một cách miên mật và lễ lạy năm vóc đòi hỏi nhiều nỗ lực về tinh thần và thể chất. Cuối cùng, nếu kết quả của sự hành trì được xem là không tương xứng với các nguyên tắc của truyền thống Kim Cương thừa, Đại thừa hay Tiểu thừa, mà lại được xếp vào kiểu thế gian, thì điều đó thật đáng tiếc.
Nhiều người chúng ta đã thọ nhận quán đỉnh từ đại tôn sư Kyabje Khenpo Jigme Phuntsok Rinpoche và có được phước báu nghiên cứu nhiều giáo lý quý báu của Đức Phật. Đây không phải chỉ là những sự gặp gỡ thông thường. Nếu chúng ta lại để sự gặp gỡ ấy trở thành những vấn đề thế tục tầm thường, chúng sẽ chẳng hữu ích trên hành trình giải thoát. Cho dù chúng ta xoay sở để có được chút lợi lạc nhờ những cuộc gặp gỡ như vậy, là điều có thể tạm thời làm thỏa mãn những mong mỏi thế gian của chúng ta, nhưng mặt khác, giải thoát sẽ bị ta đánh mất mãi mãi. Điều đó thật đáng tiếc, phải vậy không? Vì thế, hãy ghi nhớ trong tâm sự quý giá của thân người này. Đừng lãng phí đời này trong sự thờ ơ và ngu dốt và bỏ lỡ một cơ hội giải thoát khỏi luân hồi. Để đạt được thành công, trước hết chúng ta cần bắt đầu bằng việc vun bồi sự xả ly. Không thể làm vậy thì thiền định hay trì tụng thần chú cũng chẳng thể được xem là hiện tượng xuất thế gian mà nhờ đó ta có thể đạt được giải thoát rốt ráo. Điều này là cực kỳ quan trọng!
Sự xả ly là điều kiện tiên quyết của Bồ đề tâm. Không có sự xả ly trọn vẹn, Bồ đề tâm chân chính sẽ chẳng bao giờ sinh khởi.
Sự khác biệt giữa Phật giáo Đại thừa và Nguyên thủy TheravadaSự khác biệt giữa Phật giáo Đại thừa và Nguyên thủy Theravada là gì? Đó là vấn đề của việc có Bồ đề tâm hay không.
Bồ đề tâm là gì? Câu trả lời khá đơn giản và mọi người đều biết, ít nhất là về mặt từ ngữ: Bồ đề tâm là mong ước đạt Phật quả để có thể giải thoát mọi hữu tình chúng sinh. Nhưng về mặt thực hành, điều này không dễ chút nào. Thậm chí vài vị tu sĩ cao cấp và những người tuyên bố là Yogi của trường phái Đại Viên Mãn hay hành giả Kim Cương thừa cũng chưa phát triển được sự xả ly chân chính và Bồ đề tâm.
Khi Tôn giả Atisha ở Tây Tạng, một lần khi đang dùng bữa sáng với vài học trò, Ngài thốt lên: “Hôm nay, một hành giả của Mật điển Hevajra
1 đã đạt được định (samadhi) của sự ngừng diệt của một vị Thanh Văn.” (Đây là sự thiền định trong đó mọi cảm giác và ý niệm thô lậu hoàn toàn bị dập tắt. Từ quan điểm thế tục, đó nghĩa là bước vào trạng thái hoàn toàn không ý niệm và duy trì trạng thái đó trong một khoảng thời gian rất dài.) Các đệ tử hỏi rằng: “Làm sao mà một hành giả Hevajra lại có thể rơi xuống định ngừng diệt của Thanh Văn?” Đạo sư đáp: “Mật điển Hevajra là một thực hành Kim Cương thừa tối thắng. Bởi ông ấy không thực hành vì lợi lạc của mọi hữu tình chúng sinh, nên việc ấy trở thành một thực hành Tiểu thừa, và dẫn đến sự sa sút như vậy.” Câu chuyện này cho chúng ta thấy rằng chính động cơ hay mục đích thực hành một pháp tu là điều quyết định xem pháp tu ấy là Đại thừa hay Nguyên thủy Theravada, thế gian hay xuất thế gian.
Hãy lấy việc phóng sinh làm ví dụ. Trên hình tướng, điều đó có vẻ như là chúng ta đang làm lợi lạc chúng sinh khác. Nhưng thực sự, mục đích của nhiều người chỉ là tránh khổ đau hoặc đạt lợi lạc trong đời này cho chính họ. Họ có thể đạt được mục tiêu theo cách này hay không? Có, họ có thể. Tuy nhiên, giải thoát sinh vật khỏi khổ đau với động cơ tự lợi không phải là một thực hành Đại thừa bởi người thụ hưởng thực sự ở đây không là ai khác ngoài chính họ.
Nhiều người đang thực hành năm pháp tu sơ khởi siêu việt rất tinh tấn. Nếu bạn hỏi họ: “Tại sao bạn thực hành năm pháp tu sơ khởi?” - “Nếu tôi không làm vậy, tôi sẽ chẳng được phép bắt đầu pháp tu chính yếu của Đại Viên Mãn” hoặc “Không thực hành những pháp tu sơ khởi này, tôi không thể lắng nghe giáo lý về Đại Viên Mãn.” Những câu trả lời này thoạt nghe có vẻ hợp lý. Tuy nhiên, nếu bạn hỏi thêm: “Điều gì sẽ xảy ra nếu bạn bị ngăn cản khỏi việc thực hành Đại Viên Mãn hoặc lắng nghe những giáo lý này?”- “Nếu thế, sẽ rất khó để tôi đạt giải thoát.” Hãy lại hỏi tiếp rằng, “Điều gì sẽ xảy ra nếu bạn đạt giải thoát?” - “Tôi sẽ không còn khổ đau, không còn lỗi lầm.”
Nếu động cơ của bạn là như vậy, thì chẳng thể có Bồ đề tâm trong sự thực hành của bạn. Nói cách khác, chúng ta có thể tìm thấy Bồ đề tâm, là một trong năm pháp tu sơ khởi siêu việt và là điều mà bạn được cho là đang thực hành, ở đâu? Tôi e rằng sự thực hành được gọi là Bồ đề tâm của bạn có thể chỉ là vấn đề hoàn thành sự tích lũy một số lượng thần chú cần thiết. Trong khi ấy thì Bồ đề tâm vẫn chưa [thực sự] sinh khởi trong dòng tâm thức của bạn. Bạn có thể nghĩ rằng việc thực hành của mình là để phát khởi Bồ đề tâm, nhưng mục tiêu lại là tự lợi. Điều này khó có thể là cách thức thực hành Bồ đề tâm đúng đắn. Và việc thực hành năm pháp tu sơ khởi của bạn một cách vô tình lại trở thành pháp tu Nguyên thủy bởi bạn hoàn toàn bỏ mất điểm trọng yếu [tức] Bồ đề tâm.
Vì thế, chúng ta cần duy trì một sự tỉnh thức cao độ và luôn tuân giữ kỷ luật khi thực hiện bất cứ pháp tu nào. Khi kiểm tra kỹ lưỡng hơn thì chúng ta có thể thấy rằng một điều có vẻ là vị tha nhưng thực sự lại chỉ làm lợi lạc bản thân chúng ta. Điều này đúng là như vậy trong trường hợp của năm pháp tu sơ khởi cũng như trong việc trì tụng thần chú, phóng sinh, lễ lạy hay tương tự. Tóm lại, nếu mục đích chỉ là đạt được giải thoát cho bản thân, dù pháp tu có tối thắng đến đâu thì cũng chỉ được xem là một thực hành Nguyên thủy. Trái lại, nếu không có một chút suy xét tự lợi nào thì bất cứ điều gì mà người ta hành trì đều được xem là thực hành Đại thừa, dù đó chỉ là niệm hồng danh của Đức Phật một lần hay chỉ lạy một lần duy nhất.
Chúng ta đều đã nghiên cứu nhiều giáo lý và hiểu được các khía cạnh khác nhau của giáo lý. Nếu hôm nay bạn được yêu cầu ban một giáo lý, có thể bạn sẽ làm tốt. Nhưng rất ít hành giả ngày nay, dù là tu sĩ hay cư sĩ, thực hành giáo lý mà họ đã thọ nhận một cách chân thành.
Về lý thuyết, tu sĩ cần vượt xa cư sĩ về sự tiến bộ và thành tựu tâm linh bởi chư vị được cho là tương đối (không phải tuyệt đối) ít lỗi lầm hơn. Điều này là bởi chư vị đã từ bỏ phần lớn các bám chấp về vật chất và cảm xúc, là những điều thường làm khởi lên các tư tưởng tiêu cực, hoặc là gây ra các hành vi phiền phức, và vì thế, các tu sĩ không dễ dàng bị trói buộc và bị ảnh hưởng bởi những vấn đề thế tục khác nhau. Dù thế, việc thực hành tâm linh của nhiều vị tu sĩ vẫn chưa đáng được hài lòng.
Người ta thường nghĩ rằng thật khó để cư sĩ cắt đứt mọi mối bận tâm thế tục để toàn tâm toàn ý cho việc thực hành tâm linh. Kết quả là, với họ, đạt giải thoát thì rất khó. Tuy nhiên, dù trong thế giới hiện nay, vẫn có khả năng để mọi người thành công trong sự hành trì, đạt được trí tuệ tối thắng và thoát mọi khổ đau. Chìa khóa nằm ở việc có thể vun bồi động cơ thực sự vị tha và giữ được chính kiến.
Lời Vàng Của Thầy Tôi nói rằng, các hiện tượng thế gian và xuất thế gian về cơ bản là đối nghịch nhau. Vì lý do này, cư sĩ hiếm khi có được phương tiện hay ý muốn từ bỏ mọi bám víu thế gian để theo đuổi cuộc đời tu hành. Tuy nhiên, nếu người ta có thể hòa nhập Bồ đề tâm vào các hoạt động thường ngày, thì việc thực hành Đại thừa dường như không phải là không phù hợp với những vấn đề bình thường và đôi lúc còn là không hợp lý, là những vấn đề mà người ta phải đối mặt trong cuộc sống hàng ngày. Một cách tự nhiên, sẽ rất tuyệt vời nếu không để bản thân chìm đắm trong những vấn đề này, nhưng không may với đa số người bình thường thì thường là không thể tránh được. Có một điều tốt lành là mặc dù Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã không thiết lập quy tắc quá nghiêm ngặt cho cư sĩ, nhưng điều đó không hề cản trở một số hành giả cư sĩ đã trở thành những vị đạo sư thành tựu trong quá khứ cũng như trong hiện tại.
Vậy bây giờ chúng ta cần làm gì? Mặc dù sự thật là chúng ta vẫn cần đi làm, chúng ta có thể vun bồi lòng bi mẫn và sự xả ly cùng lúc. Những nỗ lực này không đối nghịch bởi có nhiều cách để chúng ta biến những hoạt động tầm thường, là những hoạt động thường chẳng hề [được xem là] vị tha, thành những hành động làm lợi lạc chúng sinh.
Ví dụ, dùng bữa ăn được xem là hành động tốt, xấu hay trung lập? Nếu không có việc làm hại sinh mạng trong khi ăn, thì ăn không tốt cũng không xấu. Nhưng, A-tì-đạt-ma-câu-xá luận nói rằng, nếu chúng ta muốn ăn trước hết để có sức mạnh giết hại, tranh đấu hay lừa dối người khác, thì việc dùng bữa ăn đó cũng giống như là phạm một điều xấu. Còn nếu mục đích của việc ăn là có đủ năng lượng để lắng nghe Giáo Pháp, giải thoát sinh vật hay vun bồi thiện hạnh, thì bữa ăn này là một hành động tốt lành. Hơn thế nữa, nếu những hành động tích cực này được thực hiện với Bồ đề tâm, ăn uống thậm chí còn trở thành một thực hành Đại thừa. Mặt khác, khi ăn mà không có mục đích đặc biệt gì, không suy nghĩ đến việc làm tổn thương hay giết hại người khác, giải thoát hay cứu giúp động vật, đó không tốt cũng chẳng xấu; về mặt thuật ngữ Phật giáo, đó là sự trung lập.
Hãy lấy ví dụ khác về việc đi làm và kiếm tiền. Tại sao phải kiếm tiền? Nếu mục đích liên quan đến thực hành tâm linh, làm việc được xem là một kiểu hiện tượng xuất thế gian. Nếu tiền bạc được dùng vì mục đích xấu, thậm chí trước khi hành động thực sự xảy ra, ác nghiệp đã bắt đầu được tích lũy mỗi ngày khi chúng ta đi làm. Khi làm việc đơn giản là một cách kiếm sống, nó không dẫn đến nghiệp tốt hay xấu. Vì thế, hành động có thể giống nhau nhưng nghiệp có thể không giống nhau. Và nhân tố quyết định không phải là thứ gì khác ngoài động cơ của chúng ta.
Nếu ta sẵn lòng, thực sự không khó để ta làm các thiện hạnh, dù ta chọn làm theo cách nào chăng nữa. Mặt khác, không sẵn sàng thực hành điều đã được học, người ta có thể lắng nghe giáo lý sâu xa nhất, chẳng hạn Đại Viên Mãn, trong suốt cả ngày dài mà vẫn chẳng lĩnh hội được gì. Cũng chẳng có ý nghĩa gì nếu buổi giảng dạy diễn ra trong những hoàn cảnh như thế. Lắng nghe các buổi giảng Pháp chắc chắn là hữu ích trong việc giúp ta hiểu rõ các giáo lý Phật Đà trên phương diện lý thuyết; điều này thì chẳng có gì phải nghi ngờ. Không có sự hiểu biết này, chúng ta sẽ không biết cách thực hành. Nhưng sẽ lợi lạc gì nếu chúng ta không đưa được giáo lý vào thực hành? Giỏi lắm là chúng ta cũng chỉ tích lũy được công đức từ việc nghe Pháp, chứ chẳng được điều gì khác. Chúng ta cũng chẳng thể hy vọng sẽ tiến bộ trong chứng ngộ thiền định. Nếu chúng ta cứ tiếp tục như vậy trong nhiều năm, có vẻ như ta học hỏi mà chẳng thực sự hiểu được ý nghĩa chân thực của Pháp, và chắc chắn ta sẽ ra đi tay trắng, không nơi nương tựa, khi phải rời bỏ thế giới này. Tuy nhiên, với người sẵn sàng và đủ khả năng, thì thậm chí chỉ dùng một bữa ăn cũng là nguyên nhân giải thoát. Và lý luận tương tự như thế này cũng áp dụng được với các thực hành Pháp khác. Vì vậy, nhất quyết phải có Bồ đề tâm, là động cơ vị tha, trong bất cứ điều gì bạn làm.
Bây giờ, điều quan trọng nhất phải làm là gì? Đó là chuyển hóa tâm thức, tức là có được một quan niệm khác. Để làm điều này, chúng ta cần bắt đầu bằng việc từ bỏ hai thứ. Đầu tiên, chúng ta cần từ bỏ việc khao khát những thứ trên thế giới này, nói cách khác, bám chấp vào luân hồi và mong mỏi tái sinh trong cõi người hay trời trong tất cả các đời tương lai. Tại sao? Bởi nếu chúng ta không làm vậy, thì dù thực hành điều gì chăng nữa, chúng đều trở thành các pháp thế gian, và sẽ hiển nhiên trở thành một chướng ngại lớn cho sự tiến bộ trên hành trình tâm linh. Vì thế, chúng ta phải từ bỏ hai điều như vậy.
Nói một cách thực tế, phần lớn chúng ta vẫn cần tham gia vào các hoạt động hàng ngày để sinh tồn. Mặc dù chúng ta không thể ngừng dứt hoàn toàn ngay lúc này, nhưng các hoạt động này không phải là một sự chướng cản thực sự miễn là chúng ta xem đấy chỉ là một phương tiện tạm thời. Một khi sự quyết tâm muốn dần dần tiếp cận con đường giải thoát bắt đầu khởi sinh trong tâm, thì chúng ta có thể xem đó là dấu hiệu của việc đã phát triển sự xả ly. Như thế, yêu cầu đầu tiên – sự từ bỏ các bám víu vào luân hồi – về cơ bản đã được đáp ứng.
Như thành ngữ thường nói: “Mất hơn một ngày lạnh giá để dòng sông đóng băng một mét.” Rốt ráo, chúng ta là những người bình thường, không thể thỏa mãn việc từ bỏ các ham muốn thế gian chỉ sau một đêm. Nhưng như đã đề cập ở trên, dù chúng ta thực hành điều gì, Đại thừa hay Phật giáo Nguyên thủy, chừng nào mục tiêu vẫn là sự đạt giải thoát rốt ráo, thì sự xả ly chân chính sẽ dần dần khởi lên theo thời gian.
Điều thứ hai cần từ bỏ là thói quen tìm kiếm tự lợi. Nếu không thể làm ngừng dứt điều này mà vẫn cứ tiếp tục làm mọi thứ chỉ với lợi ích của bản thân, thì chúng ta sẽ mãi mãi bị ngăn cản khỏi Đại thừa và trở thành kẻ ngoài lề cho dù hành động chúng ta là thế nào chăng nữa, dù là thế gian hay xuất thế gian. Mặc dù chúng ta có thể nghĩ bản thân ta là hành giả Đại thừa hay Kim Cương thừa, nhưng thực sự, nếu động cơ vẫn là tự lợi thì chúng ta thậm chí không bước đi trên con đường đúng đắn của thực hành Đại thừa, chứ đừng nói gì đến Kim Cương thừa. Vì lý do này, tự lợi cần phải từ bỏ.
Không có gì phải nghi ngờ, mà đây thực sự là điều rất khó làm bởi chúng ta đã trôi lăn vô tận trong luân hồi từ vô thủy, nên tất cả những điều lâu nay vốn thân thiết với chúng ta là nhu cầu làm lợi lạc bản thân trước mọi chúng sinh khác. Nếu không thể thấu hiểu về điều này thì chúng ta không thể hy vọng sẽ có thể từ bỏ một thói quen cũ giống như chúng ta có thể làm với một chiếc áo cũ. Nhưng nếu muốn thực hành Đại thừa, chúng ta cần vượt qua thói quen cố hữu này bất chấp những khó khăn rành rành. Nếu không, chúng ta chỉ có thể là một hành giả Phật giáo Nguyên thủy, thiếu khả năng cần thiết để thực hành Kim Cương thừa hay thậm chí là Đại thừa. Đây là điểm cực kỳ quan trọng cần ghi nhớ!
Các pháp thực hành sơ khởi luôn luôn là nền tảng của mọi thực hành. Thông thường, khi nghe đến từ “nền tảng”, người ta thường nghĩ rằng đó nghĩa là không phải rất cao cấp và vì thế cũng chẳng quan trọng gì. Đây là một cái hiểu sai lầm. Thành ngữ thường nói: “Tóc sẽ mọc từ đâu nếu không có da?” Đối với Pháp, các thực hành sơ khởi được xem là nền tảng thực sự, là gốc rễ của mọi thực hành và vì thế, là vô cùng sâu xa.
Ngày nay ở Tây Tạng và Trung Hoa, nhiều hành giả, bao gồm cả một số tu sĩ, chỉ muốn thực hành năm pháp tu sơ khởi siêu việt không quá một lần... Sự thật là chẳng bao giờ có sự kết thúc cho những thực hành sơ khởi này đối với tất cả các hành giả Pháp. Những thực hành sơ khởi này không bao giờ chỉ dùng để thực hành một hay hai lần. Nói đến việc hành trì, nhiều hành giả chỉ nhấn mạnh đến sự hoàn thành việc trì tụng thần chú chứ không phải là vào chất lượng của sự hành trì. Tuy nhiên, thậm chí nếu chất lượng không có được những tiêu chuẩn theo quy định thì chúng ta vẫn chẳng có lý do gì để ngừng lại. Những pháp tu này có thể được miêu tả là sơ khởi thay vì là một thực hành chính yếu, nhưng thật sự, các pháp tu này tạo thành phần chính yếu của tất cả mọi thực hành. Vì thế, chúng ta thực sự cần nỗ lực hết sức với những pháp tu sơ khởi này nếu mục tiêu là thoát khỏi luân hồi; nếu không, vấn đề sẽ hoàn toàn khác.
Thật sự, nhiều người đang mắc phải cùng một lỗi lầm. Đó là, mọi nỗ lực mà họ dành cho việc thực hành sơ khởi chỉ để hoàn thành yêu cầu về số lượng trì tụng nhất định và bỏ qua những điểm trọng yếu của giáo lý. Thực hành theo cách này là một sự lãng phí ngu ngốc. Phương pháp cứu giúp được ta ở đây là hãy cẩn thận quán sát động cơ đối với bất cứ việc gì chúng ta làm, dù đó là thực hành Kim Cương thừa tối thắng, năm pháp tu nền tảng hay chỉ là những hoạt động thường nhật.
Ngày nay, nhiều vị được cho là Lama tái sinh du hành thường xuyên đến Trung Hoa. Theo năm tháng, chư vị khiến quán đỉnh trở thành nghi lễ phổ biến nhất ở đó. Bất cứ khi nào một quán đỉnh được ban bởi một trong những vị Lama này, người ta đổ xô đến tham dự, dù nó xa đến đâu. Vài người tin rằng họ có thể lập tức đạt Phật quả sau khi thọ nhận một quán đỉnh; số khác nghĩ họ có được một địa vị đặc biệt sau khi thọ nhận quán đỉnh, và trở nên tự cho mình là quan trọng. Đúng là quán đỉnh rất đặc biệt và mạnh mẽ. Nhưng điều gì xảy ra khi thọ quán đỉnh? Phần lớn thời gian, việc nhận quán đỉnh trở thành thứ gì đó tầm thường (bởi các yếu tố kể trên). Điều này đúng với một số người Tây Tạng, nhưng tình thế còn tệ hơn với người Hoa. Nhiều hành giả tự cho mình là thực sự tuyệt vời. Khi nhìn thấy họ đang bị uốn nắn như những công cụ vì lợi ích thế gian thực sự khiến chúng ta nản lòng. Với phần lớn chúng ta, chúng ta không đủ thời gian để thực hành và nhiều người còn thiếu phước đức. Cuối cùng, nếu chút ít thực hành mà ta cố xoay sở để làm lại trở thành một hiện tượng thế gian thì sẽ thật là đáng tiếc.
Bây giờ, tôi muốn cảnh báo xin các bạn đừng xem những điều tôi vừa nói chỉ là kiến thức thông thường. Tôi không giới thiệu vài tư tưởng Phật giáo cho các bạn mà là những điểm chính yếu của sự thực hành Pháp, tức là ý nghĩa và các phương pháp thực hành tâm linh. Tôi cũng đang không giảng dạy cho các bạn xả ly hay Bồ đề tâm là gì, bởi tất cả đều đã có đủ những giáo lý về các chủ đề liên quan. Nhưng các bạn có thành công trong việc đáp ứng những nhu cầu được đề ra cho từng pháp tu không? Tôi e rằng rất ít người làm được điều đó. Nếu bạn không từ bỏ những bám víu thế gian và tự lợi thì y tu sĩ, danh hiệu Rinpoche, Khenpo hay cư sĩ chẳng gì khác hơn những nhãn mác và vì thế không thực sự ý nghĩa. Với cùng một biểu hiện, đeo một chuỗi tràng quanh ngực sẽ là vô dụng nếu không có mong ước vị tha. Tuy nhiên, chừng nào người ta còn có kiến thức đúng đắn về Pháp và được đặt nền tảng trên chính kiến, sẽ chẳng có khác biệt nào nếu họ là cư sĩ hay tu sĩ.
Như tôi đã nói trước đây, vài điều đơn giản như việc dùng một bữa ăn cũng có thể trở thành một hình thức thực hành Đại thừa, hoàn toàn phụ thuộc vào động cơ của bạn. Nếu thực sự là vậy, các thực hành Pháp khác cũng sẽ như vậy. Rõ ràng, chúng ta cần biết sự thực hành của mình là thế gian hay xuất thế gian, Đại thừa hay Phật giáo Nguyên thủy. Chỉ khi sự tỉnh thức đúng đắn được duy trì mọi lúc, chúng ta mới có thể đảm nhiệm vai trò của một vị tu sĩ hay cư sĩ. Thiếu sự tỉnh thức như vậy, thực hành thiền quán sẽ chỉ là bài tập vô nghĩa.
Một cách tự nhiên, nếu phải tuân theo mọi yêu cầu của những giáo lý Phật Đà, không ai, gồm cả tôi, có thể tuân thủ một trăm phần trăm. Tuy nhiên, chúng ta vẫn sẽ cố gắng hết sức, bởi những nỗ lực ấy chắc chắn sẽ làm lợi lạc chúng ta theo nhiều cách.
Chúng ta thường nghĩ rằng: “Tôi thực sự không sẵn sàng để phát khởi Bồ đề tâm, bởi tôi chỉ quan tâm đến lợi ích của bản thân. Nhưng tôi sẽ ép buộc mình làm vậy. Bởi nếu không, dù điều gì tôi làm cũng sẽ không được xem là thực hành Đại thừa.” Đây được gọi là Bồ đề tâm ngụy tạo.
Làm sao để phân biệt giữa điều ngụy tạo và không ngụy tạo? Ví dụ, khi bạn rất khát, bạn muốn uống nước. Trong trường hợp đó, uống nước là không ngụy tạo. Khi bạn không thích uống nước, nhưng vẫn uống vì lý do nào đó chứ không phải mong ước của mình. Việc uống nước đó là ngụy tạo. Nếu trong đời này chúng ta chỉ có Bồ đề tâm ngụy tạo chứ không phải chân chính, thì giống như Tôn giả Atisha từng nói: “Những người đã phát khởi Bồ đề tâm ngụy tạo trong đời này sẽ trở thành chư Bồ Tát vĩ đại trong đời sau và có thể đưa tất thảy chúng sinh trong cõi Nam Thiệm Bộ Châu thoát khỏi luân hồi.” Tại sao lại vậy? Điều này bởi vì dù chỉ đơn giản phát khởi Bồ đề tâm cũng là thực hành Pháp tối thắng. Dựa trên nghiệp quả không sai lầm, sẽ rất hợp lý khi những người này đạt thành tựu tối thắng trong đời tiếp theo.
Có một hiện tượng phổ biến ngày nay là người ta thường bỏ thực hành Pháp và cứ để ngày tháng trôi qua, như thể họ chắc chắn có được cơ hội thứ hai để làm người hay lắng nghe giáo lý Đại thừa và gặp gỡ những bậc thầy Đại thừa. Nhưng không có gì chắc chắn là cơ hội thứ hai đó sẽ đến. Bây giờ trong đời này, về cơ bản chúng ta, những kẻ may mắn, đã gặp được mọi điều kiện cần thiết cho hành trình giác ngộ. Chúng ta cần giữ gìn cơ hội thực sự hiếm có này và lập tức bắt đầu thực hành Giáo Pháp.
Khi thực hành, chúng ta không nên đơn giản tuân theo nghi thức. Thay vào đó, điều cần nhấn mạnh phải là chuyển hóa bên trong. Đây là điều quan trọng cần chú ý với cả hành giả tu sĩ lẫn cư sĩ. Nếu chúng ta thực hành theo cách này, dù thậm chí không dấn thân vào các thực hành vô cùng sâu xa như Đại Viên Mãn hay Đại Thủ Ấn, thì chí ít, chúng ta cũng có thể khiến sự thực hành của mình là xuất thế gian và là một thực hành Đại thừa. Có thể làm như vậy với việc thực hành của mình cũng là một thành tựu rồi, tôi cho là vậy.
Nhiều người trong số các bạn đang thực hành năm pháp tu sơ khởi. Liệu bây giờ các bạn có thể từ bỏ những bám víu thế gian và sự tự lợi mà chúng ta vừa thảo luận không? Hãy cứ ghi khắc rằng có nhiều cấp độ khác nhau trong quá trình từ bỏ chúng. Thường thì khá tốt nếu bạn có thể buông bỏ vài thứ. Một cách để đánh giá xem bạn đã thực hành ra sao là kiểm tra các ý định (tác ý) của bạn. Ví dụ, trước khi tiến hành những pháp tu này, bạn chủ yếu quan tâm đến lợi ích cá nhân. Bởi khi động cơ vị tha dần được tăng cường, điều ấy sẽ cho thấy là bạn đã được ảnh hưởng theo hướng tích cực bởi công phu hành trì. Nếu không, khi chẳng có biến chuyển nào xảy ra trong ý nghĩ hay hành động của bạn thì làm sao người ta có thể nói rằng việc thực hành những pháp tu sơ khởi này có thể đưa đến sự chuyển biến?
Theo một số các vị đạo sư Tây Tạng vô cùng đáng kính, khi thực hành tinh tấn, những hành giả thượng căn có thể tiến bộ mỗi ngày, hành giả trung căn mỗi tháng và hành giả hạ căn mỗi năm. Chúng ta có thể hiểu được rằng nếu người thường không có sự tiến bộ rõ rệt bởi tâm ý của họ vẫn còn hướng về những nhiệm vụ khác nhau trong đời sống hàng ngày. Nhưng hành giả tu sĩ như chúng ta, những người mà mối quan tâm chính yếu là Giáo Pháp, thì ta cần cảm thấy xấu hổ nếu không thể thành tựu nhiều thêm nữa trong thực hành tâm linh.
Cuối cùng, điểm cần nhớ là động cơ vị tha sẽ tự nhiên khởi lên theo thời gian khi sự tu tập được thực hiện một cách đúng đắn và liên tục. Tức là, sự tu tập cần theo một trình tự, đầu tiên là thiết lập quan điểm đúng đắn, sau đó, học cách dần dần từ bỏ sự bám chấp và tự lợi, và cuối cùng là nỗ lực phát khởi Bồ đề tâm chân chính. Làm theo ba bước này là điều tối thiểu cần thiết của Phật tử Đại thừa chân chính.
Trích “TRI KIẾN ĐÚNG ĐẮN: Biến người tin thành Bồ tát”----------------------------
Chú thích: 1 Một trong những Bổn tôn Yidam chính của Phật giáo Kim Cương thừa. Nguồn ảnh bìa: Sưu tầm