Chuyện Một Vị Ni Tái Sinh
(Phần 1)
Cách đây khoảng chín trăm năm có một cặp vợ chồng trẻ sống tại Shoto, một thành phố Tây Tạng gần Drigung. Họ là những người đơn giản, ngoan đạo và không mong gì hơn là sinh được một đứa con để hết lòng nuôi nấng.
Nhưng hai vợ chồng bị hiếm muộn, không thuốc men nào chữa được, đi cầu nguyện bao nhiêu cũng không có kết quả. Tuy thế hai vợ chồng vẫn tin rằng có một đứa trẻ chỉ đang chờ cơ hội được sinh ra với mình và cuối cùng hai vợ chồng quyết đi hành hương ở Katmandu (Nepal), là nơi có một bức tượng do trời đất sinh ra, nghe nói có một thần lực rất mạnh và cho tất cả các lời cầu xin được thành sự thật.
Trước các bảo tháp ở Swayambu tại vùng núi non Katmandu, hai vợ chồng quỳ gối cầu nguyện đức Phật Cồ-đàm mỗi ngày và xin làm cha mẹ của một thần thức nào đang sẵn sàng nhận một thân bằng xương bằng thịt. Họ chấp nhận bất cứ thức nào, dù thức đó mang lại ác nghiệp, hay dù thân sinh ra sẽ tật nguyền hay tâm trí thấp kém. Họ sẵn lòng chịu khó khăn gian khổ, chỉ cần có được một đứa con.
Nhiều tháng trôi qua, hai vợ chồng thuận thành sống theo qui định của người Phật tử. Rồi một đêm nọ, cả hai vợ chồng đều thấy chung một giấc mộng: mặt trời mặt trăng cùng mọc trong bầu trời đêm xanh thẫm và một tia sáng rực rỡ chiếu xuống, xuyên vào tim của hai vợ chồng.
Hôm sau lúc tỉnh dậy, hai người rất xúc động biết mình mơ cùng một giấc mơ. Họ biết rằng tương lai sẽ hé mở cho mình những điều kỳ diệu, không kể đứa con sinh ra sẽ là con của mình hay của một cặp vợ chồng khác.
Họ treo đèn kết hoa lên bảo tháp với lòng cảm tạ, bố thí cho người nghèo khổ, cho người bị hất hủi. Trên đường về nhà, họ không còn cầu xin ước nguyện nữa, mà nếu có cầu nguyện thì họ chỉ biết cảm tạ về những điều đã xảy ra.
Lâu sau người vợ mang thai và một năm sau thì sinh con. Khi sinh người mẹ không hề đau đớn, một bé gái ra đời mang hương thơm đầy nhà, nó có ánh sáng ngũ sắc chói lọi. Đứa trẻ ra đời mở mắt nhìn quanh một cách tỉnh giác, như xuất phát từ một tâm hồn rất già dặn.
Cả làng Shoto đều đồn đại về đứa trẻ và nhiều vị Lạt-ma đến viếng mục đích xem đứa bé lạ lùng này là ai. Có người nói: “Đứa bé này là tái sinh của nữ thần Kim Cương (VajraDakini)”. Có người lại nói của nữ thần Tara. Có người cho rằng nên đợi lúc đứa bé lớn lên thì tự khắc sẽ biết nguồn gốc của nó.
Không bao lâu, nguồn gốc đứa bé lại trở thành câu chuyện thời sự trong làng Shoto. Ai cũng bàn tán về câu chuyện này, ban ngày ngoài đồng áng hay ban đêm bên đống lửa. Có một Tăng sĩ nhắc lại lời tiên tri của một tập kinh trong tu viện mình như sau: "Lời tiên tri đó báo trong thế kỷ này sẽ có một nữ thần Dakini (29) sẽ sinh trong hang Tidro gần Shoto, để giúp hàng ngàn người. Trong bang Tidro, đức Liên Hoa Sinh đã từng sống và đã từng cứu độ hàng ngàn Dakini trong thiên giới. Như mọi người đều biết, các vị thiên cũng không thoát khỏi ảo giác; cũng chịu qui luật vô thường; các vị đó một ngày kia rồi cũng phải chết và tái sinh nơi một cảnh thấp kém hơn; trừ phi các vị đó cũng tu học giáo pháp để giải thoát khỏi mọi sự ràng buộc”.
Sau lời giải thích đó thì mọi việc đã rõ: đứa bé đích thị là tái sinh của thần Dakini. Vì nhớ ơn Liên Hoa Sinh mà vị ấy xuống làm người để cứu độ hàng ngàn người, như ngày xưa Liên Hoa Sinh đã giúp các vị thiên nhân trong thiên giới. Chỉ có người không quan tâm đến tung tích đứa bé là hai vợ chồng nọ, họ đầy hạnh phúc. Họ chỉ muốn một điều là đứa trẻ được đầy đủ và lớn lên phát triển hợp với thiên nhiên.
Đến ba tuổi rồi mà đứa trẻ vẫn chưa có tên chính thức, người ta chỉ gọi bằng cái tên tạm cho đến khi một cái tên đúng nghĩa sẽ được thông báo. Đứa trẻ đã học câu thần chú Tara và lẩm bẩm một cách thú vị, đôi lúc hàng giờ. Đến lúc người mẹ cho con chơi với trẻ con khác, bỗng nhiên bà biết phải đặt tên con thế nào. Khác với những đứa trẻ khác, đứa bé này không hề la khóc khi bị ai xô đẩy, ăn hiếp và giật đồ chơi. Thay vào đó, nó lại đọc thần chú Tara một cách nghiêm túc, hầu như nó biết rằng làm như thế, nữ thần Tara sẽ cứu độ. Sau đó không bao lâu, nó chỉ cho bạn biết cách đọc chú Tara và đi đâu nó cũng vẽ vời những chữ đó.
Cuối cùng cha mẹ đặt tên đứa bé là Drolma, tên này là từ Tây Tạng chỉ nữ thần Tara. Tara là dạng xuất hiện nữ tính của Bồ-đề tâm. Drolma cũng đồng nghĩa với “giải thoát”.
Từ lâu, người ta đã biết đây là tái sinh của một vị đạo sư. Nhưng cũng như mọi chúng sinh trên trái đất, Drolma cũng phải trải qua nhiều đau khổ, và với đau khổ đó con người hoặc phải phát triển hơn hay chịu vùi dập. Drolma chưa đầy mười tuổi mà cha mẹ nàng đã chết sớm và nàng phải ở với một người cậu. Ông cậu là một người đã già và không hề hiểu được tâm hồn của cháu gái mình. Đối với đứa cháu cứng đầu này, ông cậu thấy mình phải uốn nắn nàng cho phải, sau đó ông định gả nàng cho một nông dân trong làng. Mặc các Lạt-ma hay trưởng lão trong làng nói gì, ông cậu nhất định không chịu tin nàng là một tái sinh của một vị nữ thần, chứ đừng nói tới Tara tái sinh. “Mỗi người thì cũng là tái sinh của người khác”, ông cậu nói. “Thì cũng chẳng có gì đặc biệt để đội mũ lên đầu cho người đó và cho nó làm đủ thứ chuyện”.
Nhiều bà con cũng đồng tình với ông cậu. Họ cho rằng cô bé mười bốn tuổi này phải lo lấy chồng sinh con đẻ cái, chứ đừng làm chuyện đạo sư gì, đừng giảng giải gì cho cái làng quen đồng áng này những chuyện cao xa, những chuyện mà cô bé trẻ tuổi này không thể tự mình biết đuợc.
Đám cưới với con trai nông dân hầu như đã định sẵn, trong lúc đó Drolma cúi đầu, nhưng phản đối quyết liệt: “Con sẽ đi Kham, ở đó con sẽ gặp một tu sĩ, số phận đã định con lấy người đó. Chúng con sẽ sinh con đẻ cái, những đứa trẻ đó sẽ trở thành Rinpoche (đạo sư quý báu), sẽ đi vào lịch sử của đất nước”.
Bà con thở dài ngao ngán và coi thường những lời tiên tri của đứa trẻ non dạ. Tuy thế họ cũng phân vân, không rõ con người Drolma còn gì bí ẩn. Có thể nàng là một thiên tài, là hiện thân của Tara, nhưng đúng hơn nàng không hề được cha mẹ dạy dỗ gì về đời sống thực tế này.
Khi Drolma lên mười lăm tuổi thì có một thương nhân đi ngang qua Shoto. Drolma dồn hết chút của cải, chạy đến xin cậu cho mình ra đi theo đoàn. “Con cám ơn cậu đã dành nhiều ưu ái cho con, nhưng con phải theo người này đi Kham, là nơi con phải đến”.
“Ta cấm con không được rời khỏi nhà”, ông cậu la lên. “Làm sao con biết người này đi Kham? Con nói chuyện riêng với y à? Con hẹn hò với hắn, không cho ta biết ư?”
“Không”, Drolma trả lời, “con có thông tin của con từ một nguồn khác. Bây giờ con phải đi giờ đã điểm!”
Cậu Drolma dùng mọi cách giữ nàng lại, kể cả uy quyền làm cha nuôi. Nhưng khi ông thấy nàng nhất quyết ra đi, ông đành phải hạ giọng năn nỉ. "Ta xin con đừng đi, hãy nghĩ lại trước khi tai họa ập đến với con, ta có trách nhiệm với con”. Phần lớn quyến thuộc của Drolma cũng có mặt, cả nửa dân làng cũng ra can gián. Cuối cùng nhiều người tiễn đưa nàng đến cuối làng, nơi mà thương nhân và đám tùy tùng đang đợi.
Drolma nói với thuơng nhân: "Tôi không có gì đáng giá cho ông, nhưng nếu mang tôi đi Kham, ông hưởng được phước lành cách khác”.
Thương nhân ngạc nhiên: “Nhưng tại sao cô lại biết tôi đi Kham?” Thật ra thì ông cũng có quyết định đi nẻo này mới đây thôi. Drolma im lặng. Nàng ôm ông cậu và nói: “Chúng ta sẽ gần nhau, cách này hay cách khác. Một ngày nào đó, chúng ta sẽ cùng đạt giác ngộ. Cậu hãy luôn huớng tới Tara, vì Tara và con là một”. Nàng gỡ tay ông cậu ra và kêu lớn với mọi người: “Trong cõi Phật Tara, chúng ta sẽ gặp nhau”.
Với lời này, nàng rời bỏ quyến thuộc bằng xương bằng thịt ra đi và tìm cho ra người quyến thuộc tâm hồn, một tu sĩ ở Kham, một người mà không ai biết liệu họ có thật trên đời này chăng.
(còn nữa)
~ Trích “Sư Tử Tuyết Bờm Xanh”