Đạo đức trong mối quan hệ Thầy-Trò: Trách nhiệm của vị Thầy và người học trò
Phỏng vấn Đức Dalai Lama thứ 14, Tenzin Gyatso
Đạo sư người phương Tây: Những phẩm chất của một vị thầy tốt là gì?
Đức Dalai Lama: Có những yêu cầu cụ thể đối với từng vị thầy khác nhau. Điều này đã được mô tả trong Luật tạng, trong các kinh điển Đại thừa và Mật thừa.
Ngày nay chữ "thầy” khiến người ta liên tưởng đến ai đó trong lĩnh vực học thuật Có những yêu cầu cụ thể đối với từng vị thầy khác nhau. Điều này đã được mô tả trong Luật tạng, trong các kinh điển Đại thừa và Mật thừa. Trong quá khứ, một đạo sư không được bổ nhiệm. Đúng hơn, do miên mật, siêng năng tu hành người đó trở thành một hành giả tốt. Nếu một số người khác đến nhờ người đó dạy và những người tới học được dạy dỗ, trui rèn, phát triển những phẩm chất tốt, họ phát triển lòng tôn kính đối với vị thầy của mình, thì dần dần vị thầy được biết đến như một vị đạo sư vĩ đại. Bởi vì đây là một quá trình diễn ra tự nhiên nên nguy cơ một người hư hỏng trở thành một vị thầy nổi tiếng là rất ít. [Trước đây] trong hệ thống tự viện, quá trình ai đó trở thành một vị thầy được tổ chức ở một mức độ nào đó. Nhưng trong thời hiện đại, từ “thầy” khiến người ta liên tưởng đến ai đó trong lĩnh vực học thuật, sau khi hoàn thành một số yêu cầu nhất định, được một tổ chức bổ nhiệm làm giáo viên, cho dù người đó có học trò hay không. Trong tương lai, có lẽ những người tu Phật Giáo nên thành lập một tổ chức để thẩm định và chứng nhận một người là thầy sau khi kiểm tra hiểu biết Giáo lý Phật cũng như đạo hạnh của họ.
Mỗi trung tâm Pháp cung cấp [Giáo lý] liên quan các yêu cầu đối với đạo sư ở các trình độ khác nhau, và hướng dẫn người tu cách chọn thầy. Như tôi luôn nhấn mạnh, khi bắt đầu, ta không nên coi người giảng dạy Phật pháp là một đạo sư, mà chỉ là một người Pháp hữu. Sau một hoặc hai năm, khi cả hai bên đã biết rõ về nhau, học trò dần phát triển sự tin cậy và tin tưởng coi người đó là thầy của mình. Kể từ đó, mối quan hệ của họ trở thành mối quan hệ Đạo sư-đệ tử.
Khi Pháp bén rễ sâu hơn thì mọi người sẽ biết cách đánh giá phẩm chất vị thầy để tự bảo vệ mình
Nhiều vấn đề mà Phật giáo hiện đang gặp phải ở phương Tây đã xuất hiện do đây là giai đoạn đầu của việc phổ truyền Giáo Pháp sang các nước phương Tây và vì thế mà nảy sinh cơ hội cho các thầy dổm và những người không đủ trình độ có thể dạy Pháp. Tuy nhiên, khi Phật giáo bén rễ sâu hơn vào văn hóa và mọi người hiểu hơn về nó, họ sẽ biết cách đánh giá phẩm chất của một vị thầy và sẽ tự bảo vệ mình. Đây là một phần của quá trình tự nhiên khi Phật pháp đã bén rễ sâu bền.
Ở Tây Tạng, trong ba mươi năm qua, Phật giáo bị tàn phá sâu rộng. Giờ đây, khi Tây Tạng tương đối được tự do hơn, Phật giáo được phục hưng trở lại, và đã xuất hiện một số người lợi dụng tình hình này. Ở Lhasa, có một số người nam vào buổi sáng ăn mặc như các nhà sư và làm lễ puja cho những ai trả tiền, nhưng vào buổi chiều họ lại say xỉn và thậm chí ăn cắp. Do mọi người quá ham học Phật pháp và mong được gặp những bậc đạo hạnh nên rất dễ bị lừa gạt.
Ở Tây Tạng trước năm 1959 và ở Ấn Độ hiện nay, có rất nhiều Lạt ma và người xuất gia, vì vậy mọi người có thể lựa chọn, và ít có nguy cơ bị lừa dối hoặc lạm dụng hơn. Theo thời gian, nhiều người ở phương Tây sẽ có hiểu biết tốt hơn về Phật pháp và có những phẩm chất thích hợp để tìm kiếm một vị thầy giỏi, và những vấn đề nảy sinh từ những người thầy kém phẩm chất sẽ giảm đi. Tuy nhiên, tại thời điểm này, chúng tôi đang phải đối mặt với nhiều vấn đề và chúng tôi phải tìm cách giảm thiểu tác hại.
Có những người thuộc hạng không bao giờ có thể dạy Pháp ở Tây Tạng" ở phương Tây đột nhiên trở thành "lạt ma vĩ đại"
Ở Tây Tạng trước năm 1959 và ở Ấn Độ hiện nay, có rất nhiều Lạt ma và người xuất gia, vì vậy mọi người có thể lựa chọn, và ít có nguy cơ bị lừa dối hoặc lạm dụng hơn. Theo thời gian, nhiều người ở phương Tây sẽ có hiểu biết tốt hơn về Phật pháp và có những phẩm chất thích hợp để tìm kiếm một vị thầy giỏi, và những vấn đề nảy sinh từ những người thầy kém phẩm chất sẽ giảm đi. Tuy nhiên, tại thời điểm này, chúng tôi đang phải đối mặt với nhiều vấn đề và chúng tôi phải tìm cách giảm thiểu tác hại.
Nhiều trường hợp, có những vị "lạt ma" hoặc vị tăng thuộc hạng "không bao giờ có thể giảng Pháp hay ban quán đảnh cho cộng đồng ở Tây Tạng", thế nhưng ở phương Tây họ đột nhiên trở thành những lạt ma vĩ đại. Khi ai đó không có cơ hội thể hiện những phẩm chất tuyệt vời của mình và vì vậy vẫn khiêm tốn [ẩn mình] trong cộng đồng ở Tây Tạng thì đó là điều rất đáng khâm phục. [Trái lại] nếu có kẻ chỉ đơn thuần lợi dụng tình trạng đặc biệt ở phương Tây để quảng bá hay đánh bóng bản thân thì đây thật là điều đáng buồn.
Đạo sư phương Tây: một số vị thầy châu Á nói rằng nếu bạn là một học trò, bạn cần phải tuân theo các giới luật, nhưng một khi bạn đã trở thành một vị thầy giác ngộ, bạn không phải làm như vậy. Hành vi bất thường của một số vị thầy được giải thích là sự thể hiện thiện xảo, sự chứng ngộ và lòng bi mẫn của người đó mà những người trong chúng ta có trình độ kém hơn không thể hiểu được. Với tuyên bố này, một số đạo sư Phật giáo đã lạm dụng tiền bạc, quyền lực, tình dục, ma túy và rượu. Điều này khiến một số người mất niềm tin vào Phật pháp. Những hành vi đó và những lời giải thích như vây có đúng không ạ?
Đức Dalai Lama: Trong lịch sử, mặc dù một số vị thánh giả trong đạo Phật đã có những hành vi đạo đức kỳ dị, nhưng họ là những người hoàn toàn chứng ngộ và biết điều gì mang lại lợi lạc lâu dài cho người khác. Nhưng ngày nay, những hành vi như vậy đang gây hại cho Phật pháp và phải được chấm dứt. Mặc dù sự chứng ngộ của một người có thể ngang bằng với sự chứng ngộ của bậc thánh, nhưng hành vi của người ấy phải tuân theo quy ước xã hội. Nếu ai đó nói rằng vì mọi người đều có Phật tánh, nên bất cứ cách cư xử nào cũng được chấp nhận, hoặc các vị thầy không cần tuân theo các giới luật đạo đức, điều đó cho thấy rằng họ không hiểu đúng về tánh không hay nhân quả.
Mọi người đều phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Đối với một người có sự chứng ngộ hoàn toàn, việc uống nước tiểu, rượu, ăn phân và thịt người đều như nhau. Nhưng đối vớinhững vị thầy giảng dạy có hành vi sai trái những việc như như ăn phân hoặc uống nước tiểu, tôi không nghĩ họ thích cho lắm!
Việc thực hành tantra không bao giờ được là cái cớ cho những hành vi phi đạo đức. Nếu một người hiểu rõ về Kim Cương thừa, thì không có căn cứ nào để bào chữa cho hành vi xấu. Một trong những mật điển (tantra) nói rằng hành giả Mật thừa tại gia lý tưởng nên tuân theo tất cả các Luật tạng (giới luật tu viện), nhưng không mặc áo cà sa hoặc tham gia vào các nghi lễ của tu viện. Ở cấp độ cao nhất của thực hành Mật thừa, sự kết hợp của các cơ quan nam và nữ là một kỹ thuật được [hành giả] sử dụng để làm hiển lộ những tầng thức vi tế nhất và đạt tới trí tuệ thâm diệu nhất của thực tại. Đây là việc sử dụng cơ thể vật lý như một phương tiện để thúc đấy sự quán chiếu sâu xa mà không có ham muốn, xuất tinh hay cực khoái. Trên thực tế, đây là một phương pháp để vượt thoát ham muốn. Trong quá khứ, ở Tây Tạng, một hành giả phải có khả năng phô diễn thần thông, ví dụ như bay trên không, mới [được coi là ] đủ điều kiện để tu theo cách như vậy. Nếu như ai không thể thực hiện được điều đó, họ không được phép sử dụng các kỹ thuật này. Hiện tại, có rất ít đạo sư Tây Tạng ở cấp độ đó — thực tế là tôi không biết vị nào. Đức Dilgo Khentse Rinpoche, bậc thầy mà tôi kính trọng, đã nhận xét rằng ngày nay có một vài hành giả chứng ngộ cao có thể thực hành như vậy. Tôi biết rằng một số hành giả tu trên núi tuân giữ Luật tạng một cách nghiêm ngặt đã đạt được những chứng ngộ phi thường.
Nếu một người trình bày giáo lý rõ ràng, những người khác được lợi. Nhưng nếu ai đó được cho là đang hoằng pháp mà hành vi của họ có hại, thì chúng ta có trách nhiệm phê phán điều này với một động cơ tốt. Đây là lời phê phán, chỉ trích mang tính xây dựng và bạn không cần phải cảm thấy không an ổn khi làm điều đó. Trong “Hai mươi câu kệ về Bồ tát Nguyện” có dạy rằng không có lỗi lầm trong bất kỳ hành động nào bạn thực hiện với động cơ trong sáng.
Những vị thầy Phật giáo lạm dụng tình dục, quyền lực, tiền bạc, rượu, hoặc ma túy, và những người, khi đối mặt với những lời phàn nàn chính đáng từ chính học trò của họ, mà không chịu sửa chữa hành vi của họ, cần bị chỉ trích công khai và đích danh. Điều này có thể khiến họ xấu hổ hoặc hối hận và phải dừng hành vi ngược đãi của mình. Phơi bày điều tiêu cực mở ra không gian cho những điều tích cực tăng trưởng. Khi công khai những hành vi sai trái đó, cần nói rõ rằng những vị thầy như vậy đã coi thường lời khuyên của Đức Phật. Tuy nhiên, khi công khai những hành vi đạo đức sai trái của những vị đó, sẽ công bằng hơn nếu nhắc đến những phẩm chất tốt đẹp của họ.
Các vị thầy dạy Giáo lý tại các trung tâm Phật pháp không nên dính dáng đến tài chính của trung tâm. Họ nên tập trung vào việc giảng dạy để cho các thành viên khác quản lý tài chính của trung tâm. Ngoài ra, rượu thường là gốc rễ của các hành vi đạo đức sai trái. Trong xã hội Tây Tạng, hầu hết cư sĩ đều uống rượu mặc dù họ tự cho mình là Phật tử. Nhưng Đức Phật đã nói rõ ràng rằng bất cứ ai gọi Ngài là thầy của họ không được uống dù chỉ một giọt rượu.
Đạo sư người phương Tây: Một số kinh sách khuyên chúng ta nên xem vị đạo sư là Đức Phật, nhưng điều này có vẻ không phù hợp nếu một vị thầy đang hành động trái đạo đức. Vậy chúng ta sẽ xử lý thế nào đối với những người thầy như vậy? Chúng ta có phải tuân theo tất cả các hướng dẫn mà họ đưa ra ngay cả khi chúng có vẻ trái đạo đức hoặc không khôn ngoan?
Đức Dalai Lama: Việc dạy những người mới bắt đầu tu xem đạo sư là Đức Phật quả thật không khéo cho lắm. Bằng cách nghiên cứu các văn bản Luật tạng, Đại thừa và Mật thừa, chúng ta thấy cần một quá trình tiến triển trong cách tôn kính và kết nối với vị thầy của một người tu. Ở cấp độ thứ nhất, Luật tạng, Đức Phật Thích Ca được chấp nhận là vị thầy khai sáng duy nhất trong thời kỳ Phật pháp hưng thịnh này. Không có đề cập đến việc xem thầy của bạn là một vị Phật. Bạn xem thầy của bạn chỉ đơn giản là một người thầy, vị trụ trì, và liên hệ với họ ở cấp độ con người. Bạn xem họ như một huynh trưởng có trí tuệ, một hành giả chân thực mà bạn có thể học hỏi. Ở giai đoạn thứ hai, guru được coi là ngang hàng, hoặc giống như một vị Phật theo nghĩa rằng nghiệp tích lũy liên quan đến thầy của bạn tương tự như nghiệp tích lũy liên quan đến Đức Phật. Nói cách khác, thông qua việc hoặc phụng sự hoặc làm hại thầy của mình, nghiệp tích lũy từ hành động đó sẽ tương đương với hành động tương tự đối với chính đức Phật.
Chỉ khi bạn đủ chín chắn, bạn mới nên được dạy về quan điểm Mật thừa về việc kính trọng vị đạo sư ban quán đảnh cho bạn như một vị Phật. Trong thực hành Mật thừa, chúng ta cố gắng xem tất cả chúng sinh là Phật và môi trường xung quanh là một cõi tịnh độ, vì vậy sẽ không tốt nếu không xem thầy của chúng ta là Phật. Tuy nhiên, quan điểm này không nên được dạy cho người mới bắt đầu tu. Nếu nó bị hiểu lầm, và do đó cho phép đạo sư tự do hành động, nó giống như chất độc, phá hủy giáo lý, đạo sư và đệ tử.
Có ba cách kết nối với một đạo sư, có ba cách để đáp lại những chỉ dẫn của vị ấy (dù là nam hay nữ) nếu chúng trái với Giáo Pháp. Theo Luật tạng, nếu một vị thầy bảo bạn làm một hành động phi Pháp, bạn nên từ chối lời khuyên đó. Theo Đại thừa (Ba la mật thừa), nếu một chỉ dẫn phù hợp với con đường Phật giáo, hãy làm theo nó. Nếu không, ta sẽ không làm. Theo Kim Cương thừa, nếu một đạo sư đưa ra một chỉ dẫn không phù hợp với Giáo pháp, người học trò không nên làm theo và nên đến gặp vị ấy để làm rõ và giải thích lý do tại sao họ không thể. Lời khuyên này đến trực tiếp từ Đức Phật và được tìm thấy trong kinh sách. Điều tương tự cũng áp dụng nếu bạn cho rằng lời khuyên của đạo sư là không khéo léo hoặc thiếu khôn ngoan, mặc dù nó có thể là đạo đức. Động cơ thuần túy của vị thầy chưa đủ: hướng dẫn phải phù hợp với hoàn cảnh và văn hóa của nơi đó.
Nếu vị đạo sư từ chối chấp nhận sự e dè của bạn về việc làm theo những hướng dẫn trái với Pháp và đuổi bạn đi, hãy thu xếp tư trang và ra đi. Đạo sư của bạn có thể bảo bạn rời đi về thân xác, nhưng họ không thể bảo tâm bạn rời bỏ Đạo Pháp.
Từ góc độ thực hành tâm linh cá nhân, điều quan trọng là phải có niềm tin, sự tôn kính đối với guru của chúng ta và nhìn vị đó dưới ánh sáng tích cực để đạt tiến bộ về tâm linh. Nhưng trên bình diện của Phật giáo nói chung trong xã hội, việc xem mọi hành động của Thầy chúng ta là hoàn hảo chẳng khác nào thuốc độc và có thể bị lạm dụng. Thái độ này làm hỏng toàn bộ giáo lý của chúng ta bằng cách cho các vị thầy cơ hội để tận dụng lợi thế quá mức. Nếu đức tin đủ khả năng để đạt được sự chứng ngộ, thì sẽ không cần đến những vị thầy có đủ phẩm hạnh. Nếu như vậy, Đức Phật đã không cần liệt kê những phẩm chất một đạo sư cần phải có trong Luật tạng, Ba la mật thừa hay Kim cương thừa.
Kể từ khi tôi bắt đầu dạy người khác, tôi đã làm việc tinh cần, vì vậy tôi không cần phải phụ thuộc vào nguyên tắc đó theo cách bảo người khác xem mọi hành động của tôi là thanh tịnh. Nếu tôi làm sai, mọi người nên xem đó là sai lầm và công khai nói như vậy. Một số người có thể nói phong cách này là nổi loạn, nhưng nếu tất cả chúng ta đều hành động phù hợp với nó, chúng ta sẽ gặp ít vấn đề hơn ngày nay.
Đức Phật luôn khiêm tốn, và Ngài là đạo sư của chúng ta. Ngài đã làm việc rất chăm chỉ trên con đường đạo - sống giản đơn và tu tập không gián đoạn. Ngày nay, nhiều người nghĩ rằng họ được đặc ân hơn chính Đức Phật và không cần phải làm như Ngài. Trên thực tế, không ai ở trên Đức Phật, và chúng ta nên noi gương Đức Phật.
Tôi đã theo học nhiều vị đạo sư, và tôi không thể chấp nhận việc coi mọi hành động của họ là thanh tịnh. Hai vị nhiếp chính trong số mười sáu người thầy của tôi, đã tranh đấu với nhau trong một cuộc tranh giành quyền lực, thậm chí có cả sự tham gia của quân đội Tây Tạng. Khi tôi ngồi trên chiếu thiền của mình, tôi cảm thấy cả hai đều tốt với tôi, và tôi có sự kính trọng sâu sắc đối với cả hai. Cuộc chiến của họ không thành vấn đề. Nhưng khi tôi phải đối mặt với những gì đang diễn ra trong xã hội, tôi đã nói với họ, "Những gì thầy đang làm là sai!" Chúng ta không nên cảm thấy xung đột về lòng trung thành khi hành động theo cách này. Trong thực hành của mình, chúng ta có thể xem hành vi của guru như hành vi của một đại thành tựu giả, và trong cách ứng xử với xã hội, hãy làm theo cách tiếp cận chung của Phật giáo và nói rằng hành vi đó là sai.
Điều gì liên quan đến Phật pháp quan trọng hơn nhiều so với bất cứ điều gì liên quan đến cá nhân một vị đạo sư. Vì vậy, nếu cần chỉ trích một vị đạo sư để cứu Phật pháp hoặc làm lợi ích cho vài trăm đệ tử của họ, đừng ngần ngại. Sau đó, bạn có thể đến gặp vị đạo sư đó và giải thích rằng bạn đã hành động với một động cơ trong sáng. Nếu guru nổi giận, đây là một dấu hiệu khác cho thấy những thiếu sót của họ.
Kinh sách nói rằng vì chúng ta không thể chắc chắn ai là bồ tát và ai không phải là bồ tát, chúng ta không nên chỉ trích bất cứ ai. Trong bối cảnh đó, Mao có thể được xem như một vị bồ tát và chúng ta không chỉ trích ông ấy. Đó là ở mức độ riêng tư, cách chúng ta nhìn nhận nó trong tâm trí của chính mình. Nhưng về nền độc lập của Tây Tạng, tôi không thể nói Mao là tốt vì ông ta đã phá hủy tôn giáo và đất nước của chúng ta! Tôi phải nói ra! Không có xung đột giữa hai quan điểm này.
Nếu bạn vẫn chưa coi ai đó là thầy của mình và bạn phát hiện ra những hành vi sai trái của họ, thì bạn có thể dừng mối quan hệ. Nếu bạn đã tiếp nhận những quán đảnh từ họ, bạn không nên phát triển sự thiếu tôn trọng hoặc ác cảm. Trong những trường hợp như vậy, Kalachakra Tantra khuyên chúng ta nên duy trì một thái độ trung lập và không theo đuổi mối quan hệ hơn nữa. Bạn có thể giữ khoảng cách, trong khi vẫn coi người đó là đạo sư của bạn bởi vì họ đã làm lợi ích cho bạn về mặt Pháp trong quá khứ.
Nếu ai đó là học trò của một vị thầy đã lạm dụng [người đó] và bạn thấy rằng mối quan hệ của họ với người vị thầy đó là có hại, bạn nên cảnh báo người học trò. Nhưng nếu mối quan hệ đó không có hại, tôi nghĩ bạn nên để nó yên. Mấu chốt của việc bạn có tạo ác nghiệp chia cắt đệ tử và vị thầy hay không là ở động cơ của bạn. Cần tránh những hành động gây ra bởi thái độ giận dữ, phán xét, trong khi những hành động dựa trên lòng trắc ẩn và sự khoan dung là rất tốt.
Khi các vị thầy châu Á gây áp lực buộc người phương Tây phải quyên góp hoặc đưa tiền cho các khóa học của họ, bạn phải biết cách phân biệt. Trong một số trường hợp có nhu cầu chính đáng và quỹ sẽ mang lại lợi ích cho mọi người chứ không chỉ hướng tới việc xây dựng một tòa nhà xa hoa, trống trải, nếu được thế thì rất tốt. Nhưng khi số tiền đó sẽ được sử dụng cho các mục đích khác, ví dụ như mua đồ trang sức cho các thành viên trong gia đình của thầy, thì đây là hành vi tham nhũng và hợp tác với nó chỉ là làm hư người thầy.
Đạo sư người phương Tây: Có một số vị thầy dường như có sự chứng ngộ sâu sắc về tánh không nhưng hành vi đạo đức của họ vẫn phát lộ nhiều tham dục. Tại sao có một ai đó có thể đạt chứng ngộ như vậy mà vẫn tiến hành việc này?
Đức Dalai Lama: Các vấn đề nảy sinh là do thiếu sức mạnh nội tại. Mặc dù một người nào đó đang giảng dạy Giáo lý nhưng vẫn có thể tồn tại một khoảng cách giữa Giáo lý và cuộc sống của họ. Khi có mâu thuẫn giữa sự chứng ngộ có vẻ cao của ai đó với hành vi đạo đức của họ, sự chứng ngộ đó có thể không cao như người ta vẫn tưởng. Mặc dù khả năng duy trì trạng thái định nhất tâm hoặc vô niệm là một dạng chứng ngộ, nó không phải là một chứng ngộ cao thâm. Đó không phải là một sự chứng ngộ về tánh không, về bản chất tối thượng.
Mọi người có thể sai lầm trong cách thiền định về tánh không. Một số người phủ định một cách cực đoan về nhân quả, trong trường hợp đó, “sự chứng ngộ” về tánh không của họ là không chính xác. Những người khác thiền định về trạng thái vô niệm và nhầm nó với trạng thái tánh không. Hoặc, sự thiền định của họ bị ảnh hưởng bởi tâm si vi tế, và điều đó bị ngộ nhận là sự chứng ngộ. Điều này xảy ra do họ chưa nghiên cứu đầy đủ về những bẫy thiền định tiềm ẩn và pháp đối trị.
Tánh không không phải là không-có-gì-cả. Một mặt, một sự vật là trống rỗng, nhưng mặt khác nó khởi hiện theo [nhân duyên] tương thuộc. Tánh không không có nghĩa là không-có-hiện-hữu, mà nó có nghĩa rằng mọi sự không tồn tại một cách độc lập. Vì vậy nó phải phụ thuộc vào những thứ khác. Điều quan trọng là phải đảm bảo rằng người ta có hiểu biết đúng đắn về tánh không. Những ai hiểu được rằng tánh không chính là duyên khởi sẽ thấy rằng nếu hành xử sai, họ sẽ phải nhận lãnh quả báo xấu. Như vậy họ sẽ không hành động trái đạo đức.
Chúng ta có ý thức tích cực và tiêu cực về cái ngã (self). Sự chứng ngộ về tánh không sẽ triệt tiêu cái ngã tiêu cực chứ không phải cái NGÃ tích cực. Thiếu ý chí mạnh mẽ, các vị bồ tát không thể đối mặt và chiến thắng tâm vị kỉ, lấy-ngã-làm-trung-tâm (self-centered) của mình. Để phát triển một ý chí mạnh mẽ như vậy đòi hỏi sự tự tin vô cùng lớn lao - đây chính là địa hạt của cái NGÃ tích cực. Cần phải tận diệt cái ngã tiêu cực thiếu lý trí vững chắc (sound reason), được đặt trên nền tảng ý thích cá nhân kiểu “Tôi muốn cái này hoặc cái kia”. Ngược lại, cái NGÃ tích cực luôn dựa trên nền tảng lý trí vững chắc, và với cái NGÃ [tích cực] đó chúng ta có thể phát triển sự tự tin và ý chí [mạnh mẽ] rất cần thiết để vượt lên mọi thái độ tiêu cực. Do đó, đừng hiểu lầm và nghĩ rằng sự chứng ngộ vô ngã khiến bạn trở nên yếu đuối, yếm thế.
Chứng ngộ thực sự sẽ mang đến thay đổi trong cuộc sống của bạn. Dấu hiệu của việc bạn thực sự lắng nghe giáo lý là hành xử bên ngoài của bạn trở nên an bình. Dấu hiệu của thực sự trải nghiệm và chứng ngộ giáo lý là các phiền não của bạn được dẹp bỏ. Nếu bạn thiền định đúng đắn về tánh không thì tâm bi mẫn và giới hạnh của bạn sẽ tăng trưởng một cách tự nhiên. Cho dù bạn có thể đã thiền định trong ba mươi, bốn mươi năm, nhưng nếu bạn không đạt được những kết quả như vậy thì tức làcó điều gì đó không ổn với sự thực hành của bạn và thời gian đã bị uổng phí. Điều này là do sự thiếu nghiên cứu phù hợp ban đầu. Trước khi bước vào thiền định thâm sâu, điều cần thiết là phải học cách công phu thiền định đúng đắn: những trở ngại cho định hoàn hảo là gì? Pháp đối trị của chúng là gì? “Tánh không” nghĩa là gì và làm thế nào để chúng ta chứng ngộ nó trong thiền định? Ý nghĩa rộng lớn hơn của tánh không trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta là gì? Khi chúng ta học được những điều này từ những người thầy có đủ phẩm tánh, thì công phu thiền định của chúng ta sẽ thuận lợi hơn và mang lại kết quả tốt.
Những tư tưởng sai lạc được khắc phục theo từng giai đoạn chứ không phải tất cả cùng một lúc. Lần đầu tiên bạn thực sự loại bỏ một phần của chúng là ở con đường kiến đạo, khi bạn có được nhận thức trực tiếp, vô phân biệt về tính không. Trước giai đoạn đó, khi bạn gặp những hoàn cảnh làm nảy sinh những thái độ đáng lo ngại, bạn phải sử dụng kỷ luật tự giác để ngăn chặn những thái độ này phát triển thành hành vi tiêu cực. Để phát triển sự tự chủ như vậy cần hai yếu tố rất quan trọng - ý thức về tính chính trực của cá nhân và sự quan tâm đến người khác. Vì những vị thầy Phật giáo với hành vi sai trái thiếu hai yếu tố này và không quan tâm đến hậu quả của hành động của họ đối với bản thân hoặc người khác, nên với tư cách là một thiện hữu Phật Pháp, hãy lên tiếng và bày tỏ sự phản đối của bạn. Điều này có thể giúp họ phát triển ý thức về tính chính trực cá nhân và sự quan tâm đến người khác, điều này sẽ hạn chế hành vi phá hoại của họ.
Tâm trí rất phức tạp và những cảm xúc rối loạn tinh vi và mạnh mẽ đến nỗi chỉ một mình thực hành không thể loại bỏ hoàn toàn mọi trạng thái tiêu cực. Vì vậy, Đức Phật đã nghĩ ra một chiến lược phức tạp để vượt qua những cảm xúc tiêu cực này. Trong trận chiến, nếu chúng ta đánh giá thấp sức mạnh của kẻ thù, chúng ta sẽ gặp rắc rối lớn. Nói chung, trong thực hành Pháp, chúng ta không được đánh giá thấp sức mạnh của những thái độ phiền não của chúng ta.
Một số truyền thống hoặc một số người nói về thực hành cao cấp và con đường trực tiếp. Mặc dù điều này có thể phù hợp với một số người đặc biệt, nhưng đối với hầu hết thì không. Một số người nói rất cao xa, sâu sắc, nhưng nếu điều gì đó khó chịu xảy đến trong cuộc sống hàng ngày, họ không có sự chuẩn bị và không thể xử lý nó. Vì vậy, nói chung, tôi thích một con đường mang tính tiệm tiến hơn.
Đạo sư người phương Tây: Nhiều học trò sợ phá vỡ samaya — sự cam kết và ràng buộc với đạo sư — nếu họ nói một cách công khai về những gì họ cho là lạm dụng. Hành vi lạm dụng của người thầy có phá hủy samaya và tạo điều kiện cho học trò phá samaya không?
Đức Dalai Lama: Tôi không biết. Mặc dù theo một nghĩa nào đó, guru đã phá vỡ samaya, nhưng điều đó không cho phép học trò phá vỡ nó. Nếu vị thầy sát sanh, điều đó không có nghĩa là tôi cũng có thể sát sanh! Chúng ta không nên bắt chước những tấm gương xấu! Chúng ta nên tôn trọng quan điểm chung của thế giới về điều đúng và điều sai. Trước đó tôi đã nói về tình hình với hai nhiếp chính của mình. Mặc dù tôi có niềm tin sâu sắc và tôn trọng các bậc thầy của mình và coi họ là những bậc thiêng liêng cao cả, tôi đã không ngần ngại chỉ trích hành vi của họ vì những hành động đó là sai trái dù cho ai đã làm. Tôi không nói vì hận thù hay bất kính, nhưng vì tôi yêu Phật pháp và hành động của họ đã đi ngược lại điều đó.
Điều cần thiết là phải phân biệt giữa hai điều: con người và hành động của họ. Chúng tôi chỉ trích hành động, không phải con người. Người trung lập: người đó có mong muốn được hạnh phúc và vượt qua sự khổ đau, và một khi hành động tiêu cực của họ dừng lại, họ sẽ trở thành một người bạn. Kẻ gây rối là những thái độ và hành động đáng lo ngại. Lên tiếng phản đối hành động không có nghĩa là chúng ta ghét người đó. Ví dụ, chúng ta chống lại sự bất công của Trung Quốc, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta chống lại người Trung Quốc với tư cách là con người, kể cả những kẻ tàn nhẫn. Trong thiền định, tôi cố gắng phát triển lòng từ bi thực sự đối với những người này trong khi vẫn phản đối hành động của họ. Do đó, chúng tôi có thể chỉ trích những hành động ngược đãi hoặc phẩm chất tiêu cực của giáo viên trong khi chúng tôi đồng thời tôn trọng họ với tư cách là một con người. Vẫn có một số khía cạnh có lợi của guru. Một hành động sai không phá hủy được phẩm chất tốt của họ. Nếu bạn chỉ trích theo cách này, kết quả là không có nguy cơ tái sinh địa ngục. Động cơ chính là chìa khóa: nói ra sự mong đợi hoặc mong muốn trả thù là sai. Tuy nhiên, nếu chúng ta biết rằng không nói ra, hành vi tiêu cực của họ sẽ tiếp tục và sẽ làm tổn hại đến Phật pháp, mà chúng ta vẫn im lặng, điều đó là sai.
Đạo sư người phương Tây: Có nhiều cuộc thảo luận ở phương Tây về sự phù hợp của quan hệ tình dục khi hai đối tác không có quyền lực hoặc địa vị ngang nhau trong mối quan hệ. Ý kiến của Ngài là gì: có lúc nào quan hệ tình dục giữa một vị thầy Phật giáo và học trò của họ có thể thích hợp không?
Đức Dalai Lama: Có thể xảy ra trường hợp một vị thầy chưa lập gia đình gặp một học trò chưa lập gia đình khi đang giảng dạy. Nếu mối quan hệ phát triển theo chiều hướng bình thường với sự đồng thuận, tôn trọng lẫn nhau và họ quyết định kết hôn thì không sao cả. Khi hai người trong mối quan hệ đối xử bình đẳng với nhau, sẽ không có sự khác biệt về quyền lực hoặc địa vị trong khi quan hệ tình dục. Khi đó vị thầy ấy không ngồi ở vị trí ngai toà! Tuy nhiên, nếu vị thầy ở với học trò này một tháng và một học trò khác vào tháng sau, điều đó là không đúng. Ngoài ra, áp đặt hoặc ép buộc quan hệ tình dục là sai. Vì vậy, việc lạm dụng ý tưởng về dakini bằng cách nói những điều như "Bạn có dấu hiệu là một dakini đủ tiêu chuẩn," hoặc tâng bốc học viên, "Bạn có tiềm năng Phật pháp rất lớn" cũng là điều sai trái.
Đạo sư người phương Tây: Ở phương Tây, nhiều chuyên gia đang suy nghĩ sâu sắc về các phương pháp sử dụng trong các trường hợp lạm dụng. Có những phương pháp nào ở Châu Á để đối phó với sự lạm dụng và giúp đỡ các bên liên quan không?
HHDL: Trong trường hợp xuất gia, nếu bất kỳ thệ nguyện nào trong bốn giới gốc — từ bỏ sát sanh, trộm cắp một vật có giá trị, quan hệ tình dục (dị giới hoặc đồng tính luyến ái), và nói dối về thành tựu tâm linh của một người — là hoàn toàn vi phạm, thì người đó phải rời khỏi tự viện và không còn sống đời sống xuất gia nữa. Ngoài ra, tôi không biết có bất kỳ phương pháp thể chế nào để giải quyết các trường hợp khác.
Tất cả các hình thức lạm dụng đều chống lại quy tắc chung của Phật giáo. Nếu một cá nhân không nghe theo lời chỉ dạy của Đức Phật, chắc chắn họ cũng sẽ không nghe theo những người bình phàm như chúng ta. Trước đó, tôi đã đề nghị rằng khi một giáo viên rõ ràng là có hành động trái đạo đức và học trò đã cố gắng thảo luận với họ nhưng không có kết quả, thì cách duy nhất là công bố nó trong cộng đồng. Tôi nghĩ rằng vị thầy ấy sẽ cảm thấy hổ thẹn và quyết định thay đổi hành vi của mìn. Tôi hoan nghênh ý tưởng của bạn về chủ đề này.
Một số người gần như từ bỏ đức tin và sự tôn kính của họ đối với Đức Phật nếu họ bị một vị thầy Phật giáo lạm dụng tình dục. Điều này làm cho tôi rất buồn. Khi được giải thích rằng những hành động như vậy là trái với quy luật chung của Phật giáo, thì sự nghi ngờ của họ đối với Đức Phật và Giáo Pháp giảm đi. Như đã giải thích trên đây, nếu một giáo viên đưa ra những hướng dẫn mâu thuẫn với giáo Pháp, bạn không nên làm theo. Nếu ai muốn xem các nguồn kinh điển để chứng minh điểm này hoặc điểm khác, chúng tôi có thể cho họ xem.
Đạo sư người phương Tây: Phản ứng của cộng đồng Phật giáo đối với hội nghị đầu tiên của chúng tôi (năm 1993) nói chung là tích cực và ủng hộ. Tuy nhiên, một số người lo ngại rằng họ đang bị áp đặt bởi các quy tắc, và chúng tôi muốn làm dịu phản ứng của họ.
HHDL: Là những Phật tử, động cơ của chúng ta phải rõ ràng và chân thành. Một cuộc khủng hoảng về đạo đức ở các nước phát triển đang diễn ra, vì vậy, chúng ta phải giải thích thế nào là hành vi phù hợp với Phật pháp và tự mình sống theo quy tắc đó. Chúng ta không phát minh ra các hành vi đạo đức và áp đặt nó lên người khác: chính Đức Phật đã thiết lập chúng và nhiều giới nguyện khác nhau. Là những tín đồ chân thành của Đức Phật, chúng ta chỉ đơn giản là nhắc nhở bản thân và những người khác về những gì Đức Phật đã nói. Nếu ai đó không muốn làm theo điều này, đó là quyền của họ. Nhưng nếu ai đó coi Đức Phật là thầy của họ, thì điều quan trọng là phải tôn trọng các nguyên tắc đạo đức do Đức Phật đề ra.
Vấn đề này đã được đưa ra trong hội nghị đầu tiên, và nó đã đạt hiệu quả. Chúng ta nên tiếp tục quá trình này và bao gồm đại diện từ các nhóm khác nhau. Bằng cách đó, mọi người sẽ tin rằng mối quan tâm của chúng tôi là Phật pháp, không gì khác. Nếu mọi người nghi ngờ điều này, hiểu lầm sẽ nảy sinh. Tuy nhiên, ngay cả khi mọi người thảo luận mọi việc một cách đúng đắn, đôi khi sự nghi ngờ hoặc hiểu lầm vẫn xảy ra do sự thiếu rõ ràng hoặc do thiếu giao tiếp với người khác. Để khắc phục điều đó, chúng ta nên tiếp tục có những cuộc gặp như thế này và mời các giảng viên phương Tây và châu Á từ mọi truyền thống. Mọi người phải được phép nói một cách cởi mở và nói lên suy nghĩ của họ. Bằng cách đó chúng ta có thể thảo luận và xóa tan những hiểu lầm.
Edited by Bhiksuni Thubten Chodron© Thubten Chodron www.thubtenchodron.org
Chú thích:1. Từ các ghi chú được thực hiện trong cuộc họp của Đức Đạt Lai Lạt Ma và các vị thầy Phật giáo phương Tây tại Dharamsala, 1993.2 Phật giáo Tây Tạng nói về ba loại thực hành: Luật tạng, Đại thừa và Kim cương thừa (Tantrayana). Trong thực hành Luật tạng (ở đây từ “Luật tạng” được dùng theo nghĩa tổng quát hơn như đã trình bày trong phần trước), chúng ta tìm kiếm sự giải thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử. Để đạt được điều này, chúng ta phải quy y Tam Bảo, cố gắng tránh mười hành động phá hoại, và thọ giới luật như một tín đồ tại gia hoặc xuất gia của Đức Phật. Giới luật cư sĩ bao gồm năm giới, và giới luật xuất gia bao gồm giới luật của người mới xuất gia và người xuất gia đầy đủ. Trong thực hành Đại thừa hoặc Ba-la-mật, người ta tìm kiếm sự giác ngộ hoàn toàn để mang lại lợi ích cho người khác một cách tự nhiên nhất. Để hiện thực hóa điều này, hành giả thọ giới Bồ tát và thực hành sáu ba la mật (sáu sự hoàn thiện hay thái độ cao cả) gồm bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Vajrayana là một nhánh của Đại thừa, và do đó động cơ là giống nhau: có thể làm lợi ích cho người khác một cách sinh động nhất và do đó trở thành một vị Phật hoàn toàn giác ngộ. Có nhiều trường phái tantra khác nhau, tất cả đều liên quan đến việc bắt đầu bằng các thực hành thiền quán Bổn tôn. Ở các tầng cao hơn của tantra, người ta thọ giới Mật thừa. Kim Cương thừa có các kỹ thuật thiền định đặc biệt như hình dung bản thân như một hình tượng Phật và làm việc với các năng lượng vi tế của cơ thể và các tầng bậc vi tế của tâm trí. Thực hành Kim Cương thừa dựa trên thực hành Đại thừa, và tiếp theo là dựa trên Luật tạng. Từ ba loại thực hành này sẽ có ba nhóm vị thầy với các phẩm chất khác nhau. Mặc dù những điều trên có thể không phải là khía cạnh cấu trúc của tất cả các truyền thống Phật giáo, Đức Ngài ở đây đang nói từ quan điểm của Kim Cương thừa được thực hành ở Tây Tạng.3. Ở những cấp độ rất cao của con đường, khi một người đã chứng ngộ trực tiếp, vô phân biệt về tánh không và đã điều phục mọi quan niệm về thực tại cố hữu, họ không nhìn các hiện tượng theo cách bình phàm, nhị nguyên như chúng ta thường làm. Vì vậy, nếu họ uống nước tiểu, rượu, v.v., họ không phản ứng như chúng ta, mà nhìn chúng một cách thuần tịnh.4. Ngài đang nói ở đây từ quan điểm chung của con đường Kinh thừa. Trong con đường Mật thừa, có những lúc rượu được sử dụng trong một số nghi lễ nhất định. Bởi vì thiền Mật thừa liên quan đến việc khắc phục và chuyển hoá hình tướng bình thường, rượu được chuyển hóa bởi sức mạnh của thiền định của một người thành một chất tinh khiết, và với nhận thức đó, nó có thể được nếm thử. Người ta lưu ý rằng những người chưa có chứng ngộ hoặc chứng ngộ thấp trong Mật thừa chỉ nếm một lượng nhỏ trong nghi lễ. Tuy nhiên, những người có chứng ngộ cao có thể uống rượu mà không bị mất tỉnh thức hay sự minh mẫn của tâm trí.5. Đại thành tựu giả là một hành giả Mật thừa đạt chứng ngộ cao, người mà đôi khi có thể hành động phi quy tắc. Mặc dù hành vi có thể không phù hợp với các chuẩn mực xã hội, nhưng động cơ, nhận thức và hành động của người đó là trong sáng.
Nguồn ảnh bìa: FB Nguyễn Trường Giang