LỜI NÓI ĐẦU CỦA DỊCH GIẢ Giáo huấn Dakini là một tuyển tập những lời khai thị từ một số “kho tàng giáo lý” được phát hiện hay còn được gọi là Terma. Bao gồm những giáo huấn khẩu truyền về thực hành Giáo Pháp của Guru Rinpoche (Đức Liên Hoa Sanh) đã ban khi Ngài ở Tây Tạng vào thế kỷ thứ 9. Những khai thị này được ghi chép bởi vị đệ tử chính của Ngài, Dakini Yeshe Tsoygal, công chúa xứ Kharchen. Theo Cuộc Đời Một Trăm Vị Terton [1] của Ngài Jamgon Kongtrul đệ nhất, Yeshe Tsoygal là một Dakini và là hóa thân của Phật Mẫu Lô Xá Na (Lochana), phối ngẫu của Đức Phật Ratnasambhava (Phật Bảo Sanh) cũng là Vajra-Yogini xuất hiện trong thân tướng của một người nữ. Bà đã phụng sự Đức Guru Rinpoche khi Ngài ở Tây Tạng và sau đó thực hành kiên trì khác thường, cuối cùng thành tựu ngang bằng với Thầy mình. Lòng bi của Bà vô song và ân phước của Bà bất tận.
Yeshe Tsoygal đã viết lại giáo huấn khẩu truyền này bằng một loại chữ mật mã bí mật được gọi là “Chữ viết Dakini” và chôn dấu như một kho tàng terma quý báu để các vị terton khai quật vào nhiều thế kỷ sau. Chính Đức Guru Rinpoche đã tiên tri nơi chốn, danh tánh, thời gian của những vị terton đến khai mật tạng. Những giáo huấn mà các vị terton tiếp nhận trong thực tế hay trong linh kiến đều thích hợp cho những người sống trong thời các Ngài và trong những thế hệ sau này.
Hầu hết mỗi chương trong quyển sách này đều nhắc nhở là những giáo huấn này được ban vì lợi ích cho những hành giả trong thế hệ tương lai nên có lời ghi rằng: “Nguyện cho những người đã được định trước và xứng đáng trong tương lai gặp được giáo huấn này!”
Giáo huấn Dakini đặt nền tảng trên terma được phát hiện bởi vị khai mật tạng Nyang Ral Nyima Oser vào thế kỷ thứ 12. Bản viết tay mà tôi sử dụng được lưu trữ ở thư viện Hoàng Gia Đan Mạch, nhiều thập niên trước một nhà thám hiểm đã đem về bản viết tay này từ Tu viện Mông Cổ. Vào năm 1976 khi Ngài Dilgo Khyentse viếng thăm thư viện, Ngài yêu cầu được xem tất cả những bản văn viết tay gốc và quyết định sao chụp lại sáu chương của quyển sách mà thời đó Ấn Độ chưa có. Trong số sáu chương này là một sưu tập của một số terma gọi là Jomo Shulen của Nyang Ral “Câu hỏi và trả lời của Lady Yeshe Tsoygal”. Sau này tập sách được Nhà in Sherab Drimey ở Tân Đề Li Ấn Độ của Đức Dilgo Khyentse in lại theo nguyên bản. Sau này khi tôi giới thiệu quyển sách với Thượng Tọa Tulku Urgyen Rinpoche, Ngài đọc và biểu lộ niềm hoan hỷ lớn lao, động viên tôi chuẩn bị cho bản dịch này.
Ngài cũng chỉ ra một sưu tập terma tương tự khác của Nyang Ral gọi là Nyang-gyi Martri “Những Giáo huấn Trực Chỉ Của Nyang.” Ngài Jamgon Kongtrul cho rằng quyển sách này quan trọng tương đương với chương 60 của bộ Rinchen Terdzo. So sánh hai bản viết tay này, tôi thấy cả hai đều chứa đựng những khai thị vô giá của Đức Liên Hoa Sanh, tuy vậy đôi khi có những chỗ giống và những chỗ khác nhau. Cho thấy rõ ràng là từ hai nguồn khác nhau, khi Ngài Jamgon Kongtrul soạn quyển Rinchen Terdzo thì chưa có bộ Jomo Shulen.
Ngài Nyang Ral Nyinma sống cách đây tám trăm năm, nên người đời sau mỗi lần sao chép tay đều có một vài thiếu sót và sai về lỗi chính tả. Tuy nhiên hai bản này không có những lỗi giống nhau. Do vậy, tôi dựa trên bản sưu tập terma thứ ba vào thế kỷ 14 của Tổ Sangye Lingpa. Những phần của sưu tập này hầu như giống nhau trong cách hành văn với terma của Ngài Nyang Ral Nyinma Oser. Lý do cho sự giống nhau này là cả hai vị Tổ trong kiếp trước đã cùng hiện diện khi Đức Liên Hoa Sanh ban giáo huấn. Ngài Nyang Ral Nyinma Oser là tái sanh của Vua Trisong Deutsen, và Ngài Sanye Lingpa là tái sanh của Murub Tseypo, con trai thứ hai Vua Trisong Deutsen. Những tài liệu trong ba bộ sưu tập này đủ để soạn thành bốn quyển dịch sang tiếng Anh, nên tôi tuyển chọn những giáo huấn nào thích hợp nhất với thời đại ngày nay.
Những chú dẫn sau đây về lược sử tóm tắt cuộc đời Ngài Nyang Ral Nyinma Oser (1124-1192) được trích dẫn từ quyển
Cuộc Đời Của Một Trăm Vị Terton . Đức Guru Rinpoche tiên tri rằng Ngài Nyang Ral là người đầu tiên của năm vị vua terton. Ngài là một tái sanh của Trisong Deutsen, vị vua đầu tiên cầu thỉnh Guru Rinpoche đến Tây Tạng còn được biết là Tsangpa Lhai Metok (Hoa Thiêng của Trời Phạm Thiên).
Ngài sinh ở vùng Lhodrak vào năm con rồng gỗ [2], con trai của Lama mũ đỏ Nyangton Chokyi Khorlo.
Vào năm lên tám tuổi Ngài linh kiến thấy Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Đức Quán Tự Tại và Guru Rinpoche. Kinh nghiệm của Ngài rực sáng mạnh mẽ trong suốt một tháng.
Một buổi chiều Ngài thấy Đức Liên Hoa Sanh cưỡi một con ngựa trắng được bốn Dakini nâng, Ngài tiếp nhận quán đảnh nhờ uống nước Cam lồ trong bình của Guru Rinpoche. Vào lúc nhận quán đảnh Ngài có kinh nghiệm bầu trời bùng mở, mặt đất và núi đồi rung chuyển và Ngài bắt đầu hành động theo nhiều cách kỳ lạ khiến nhiều người nghĩ rằng Ngài điên.
Sau đó cha Ngài ban quán đảnh Bổn Tôn Hayagriva, và sau khi thực hành nhập thất, Ngài thấy Bổn Tôn và dao Phurba phát ra tiếng ngựa hí và Ngài để lại dấu bàn chân, bàn tay trên mặt đá cứng.
Theo đúng lời tiên tri của các Dakini, Ngài đến Mawo Choqi Draktsa, nhờ trí tuệ các Dakini ở đây, Ngài được ban Pháp danh Nyima Oser (ánh sáng mặt trời). Từ đó Ngài nổi tiếng với Pháp danh này.
Guru Rinpoche xuất hiện đến Ngài trong thân người và trao cho Ngài bản danh sách những terma phải phát hiện. Vì vậy, Ngài phát hiện nhiều bộ giáo huấn terma, trong số đó quyển được biết đến nhiều nhất là Kagye Desheg Dupa, một giáo huấn tập trung vào tám nghi quỹ Heruka và quyển Sanlingma (tiểu sử Đức Liên Hoa Sanh).
Sau đó Ngài lập gia đình với Jobum, một hóa thân của Yeshe Tsoygal và có hai con trai, Drogon Namkha O và Namkha pal, cả hai đều trở thành trưởng dòng.
Trong suốt cuộc đời, Ngài duy trì thực hành nhập thất và giảng dạy người khác ngang nhau. Hoạt động của Ngài lan rộng đến khắp các cõi thế gian và có tác động to lớn về sự tương tục của Giáo Pháp.
Trong năm con chuột gỗ, Ngài viên tịch vào tuổi 69, kèm theo nhiều dấu hiệu kỳ diệu.
Tôi, Jamgon Kongtrul, đích thân thu thập tất cả những trao truyền cho giáo huấn terma của Nyang Ral, cho khắc bản gỗ để in chín quyển của bộ Kagye Desheg Dupa và thực hành theo nghi quỹ này nhiều lần. Theo cách này, tôi có thể dâng hiến sự phục vụ tầm thường của tôi cho giáo huấn này.
Một số tài liệu sau đây mô tả việc Ngài Nyinma Oser tiếp nhận terma thực tế của Giáo huấn Dakini như thế nào, trích từ tiểu sử của Ngài gọi là
tấm gương trong sáng, thấy trong quyển hai của bộ Kagye Dushe Dupa.
Sau này, khi tôi nhập thất thực hành nghi quỹ Guru tại động Pha lê của Padma Gong. Vào một buổi chiều, một thiếu nữ màu trắng xuất hiện tự xưng là Yeshe Tsoygal. Bà mặc áo dài màu xanh với một tấm tạp dề ở trước và một áo bằng lụa trắng. Bà hỏi:
“Này hành giả, ngươi muốn cầu gì?”
“Con không mong cầu gì ngoài Giáo Pháp!” Tôi trả lời.
“Vậy Ta sẽ ban cho con”. Bà nói và đưa cho tôi một hộp với những bản kinh chép tay, những lời tiên tri của các Dakini và 108 câu vấn đáp.
Sau đó Bà nói. “Con trai, hãy cùng Ta đến nghĩa địa Sitavana! Ngài Achaya Padma và tám vị Trì Minh Vương (Vidyadhara) cũng như rất nhiều hành giả xứng đáng khác đang dự một Pháp hội vĩ đại. Chúng ta, những Dakini cùng nhau đang tổ chức một đại tiệc.
Chúng tôi đến nơi và thấy một nghĩa địa vĩ đại. Thật là một nơi khủng khiếp ghê sợ mà người không xứng đáng không thể đến được. Ngay trung tâm là một hành giả có da màu nâu sáng ngồi trên một ngai lớn làm bằng đá quý.
Ngài nói. “Có phải Tsangpa Lhai Metok, con trai ta đó không? Lang thang trong luân hồi có làm con mệt mỏi chưa?” Ngài bảo tôi ngồi trên một đống xương người, tôi liền ngồi xuống.
Phía trước Ngài là một đại mandala với vô số trang hoàng bằng những lưới tia sáng. Ở tám hướng chung quanh, tôi thấy tám vị Vidyadhara của Ấn Độ và Tây Tạng ngồi với vẻ mặt hoan hỷ. Tôi thấy lòng tràn ngập niềm vui.
Kế tiếp người thiếu nữ hỏi tôi, “Con trai, con muốn thưởng thức hội tiệc hay chuyển Pháp luân?” đáp lời, tôi nói “Mong Ngài chuyển Pháp luân cho con.”
Lập tức, tôi được ban cho bước chuẩn bị để nhập vào dòng đại mandala này, sau khi tôi đi vào tám hướng của mandala, ở đó mỗi vị Tổ ban quán đảnh sâu rộng và giao cho tôi trách nhiệm về dòng phái.
Vị yogi ngồi giữa, người ta nói Ngài là Đức Padmasambhava, còn gọi là Đức Padmakara, ban cho tôi đại quán đảnh của Tập Hội Các Đấng Thiện Thệ Hiền Minh Và Phẫn Nộ, Ngài cũng ban sách và dạy tôi giai điệu để tụng niệm.
Sau đó, tất cả các Vidyadhara cùng lúc ban quán đảnh tri thức và duy trì, quán đảnh để thiền định và thực hành, quán đảnh về giải nghĩa và giảng dạy, quán đảnh thuần phục chúng sanh qua những hoạt động, quán đảnh hoàn toàn làm chủ thành tựu của một vị vua Vajra, và quán đảnh Đại Viên Mãn (Dzogchen) để biểu hiện Giác tánh.
Tiếp nhận tất cả những quán đảnh này từ các Ngài, tôi được ban một vỏ ốc tù và trắng và được lệnh về nhà, chính ngay lúc tôi nghe thế, toàn bộ cảnh tượng của nghĩa địa và mọi vị Tổ biến mất như hơi nước trên gương. Khi tỉnh lại, tôi thấy mình đã trở lại lều thiền định của mình.”
Terma thứ hai tôi sử dụng để so sánh và sửa lỗi chính tả, bổ túc những thiếu sót khi soạn quyển Giáo huấn Dakini là terma được Ngài Sangye Lingpa phát hiện (1340-1396). Ngài sinh tại Konpo, một tỉnh phía đông nam Tây Tạng vào năm con Rồng sắt, cùng năm sinh với Đức Karmapa đệ tứ, Rolpey Dorje. Ngài Sangye Lingpa được xem là một hóa thân của Yeshe Rolpa Tsal, con trai thứ hai của Vua Trisong Deutsen. Vào năm 1364, Ngài phát hiện giáo huấn của Lama Gongdue và đó là phát hiện terma quan trọng nhất của Ngài. Sangye Lingpa cũng được tính là một trong năm vị vua terton. Gần đây, hai vị Tổ vĩ đại đã tái sanh ở Tây Tạng là Ngài Jamyang Khyentse Wangpo và Terchen Chokgyur Lingpa được biết như năm vị vua terton.
Sau cùng, quyển Giáo huấn Dakini kết thúc bằng một chương của terton Guru Dorje Lingpa bao gồm những lời cuối cùng của Đức Liên Hoa Sanh.
Dorje Lingpa (1346-1405) là một trong năm vị khai mật tạng ở Tây Tạng nổi tiếng như năm vị vua terton.
Tôi xin cảm ơn mọi người đã góp phần soạn thảo quyển sách này, nhất là His Holiness Dilgo Khyentse và Thượng tọa Tulku Urgyen Rinpoche về những giáo huấn và ban phước. Marcia Binder Schmidt đã rà soát lại bản dịch và giám sát hoạt động ở tất cả giai đoạn, Mim Coulstock về xuất bản, và Phinjo Sherpa đã giúp đỡ về câu chữ suốt quá trình.
Quyển sách này chứa đựng một số tinh túy những giáo huấn khẩu truyền của Đức Padmakara về thực hành Giáo Pháp phổ thông và về việc làm thế nào để tu hành một cách thực tiễn. Tôi vui thích khi thấy giáo huấn quý báu này bây giờ được dịch sang Anh ngữ. Dù bản dịch của chúng tôi có thể chưa hoàn thiện về mặt uyên bác và từ ngữ văn hoa, nhưng tôi tin rằng mối kết nối giữa ân phước của Guru Rinpoche và sự rộng mở, cộng với tính ngay thật của người đọc sẽ bù đắp cho những khiếm khuyết. Người nào đọc hay nghe quyển Giáo huấn Dakini này sẽ thân cận với chính Đức Guru Rinpoche cũng giống như giáo huấn này đã làm xúc động tôi, cầu mong giáo huấn này cũng gây xúc động trong tâm và là nguồn cảm hứng bất tận cho mọi người.
ERIK PEMA KUNSAN
Động Asura 1989
Nội dung đọc web đang cập nhật. Xin vui lòng đọc và tải PDF tại đây: https://lienhoaquang.com/thu-vien_GIAO-HUAN-DAKINI_kgtmqgl_xem-PDF_tuequang.html