Lời Mở đầu
Machig Lapdron là một trong những phụ nữ Tây Tạng thần bí nổi danh được yêu mến nhất. Bà được xem là một trong những Hóa thân của Yeshe Tsogyel. Vị phối ngẫu vào thế kỷ VIII của Guru Padmasambhava - Người mang Phật Giáo Kim Cương thừa vào Tây Tạng. Có nhiều tiểu sử của Machig, nhưng đây là tiểu sử dài và đầy đủ nhất tôi từng thấy. Trong “Cuộc đời của Yeshe Tsogye”. Đức Padmasambhava đã tiên đoán Yeshe Tsogyel sẽ tái sinh là Machig Lapdron - Vị phối ngẫu của bà là Atsara Sale sẽ trở thành Topabhadra chồng của Machig.. Người phụ tá và vị phối ngẫu phụ của Padmasambhava - Tashi Khyidren sẽ tái sinh là con gái duy nhất của Machig... Tất cả những nhân vật quan trọng trong cuộc đời Tsogyel đều được tái sinh trong đời Machig Lapdron. Kể cả bản thân đức Padmasambhava là người trở thành Phadampa Sangye.
Tất nhiên không có cách để chứng minh những mối liên hệ này một cách khoa học. Đối với một người Tây phương có vẻ lạ lùng là: Gia phả được liệt kê qua dòng truyền những Hóa thân hơn là dòng dõi máu mủ. Nhưng nhiều tiểu sử của các thánh nhân Tây Tạng, bắt đầu với lịch sử của những Hóa thân quay trở lại hàng trăm năm. Ngay cả tiểu sử của Machig hơi bắt đầu gây bối rối với tiểu sử của người đàn ông. Hóa ra người đàn ông trong thực tế là Hóa thân trước đó của Machig. Sự chuyển hóa phi thường từ một Yogi ở Ấn Độ thành thân tướng của một thiếu nữ ở Tây Tạng, nhờ sự can thiệp của các Dakini là một sự kiện siêu nhiên lạ thường.
Không phải ông ta chết. Đúng hơn tâm thức của ông được chuyển di đến Tây Tạng. Vào cuối câu chuyện, chúng ta trở lại với thân xác ông. Nó vẫn không biến đổi trong năm mươi năm trong một hang động ở miền Nam Tây Tạng. Để hiểu được loại câu chuyện này, chúng ta phải từ bỏ cấu trúc quy chiếu Tây phương. Sự giới hạn những ý niệm về điều gì có thể thực hiện được và điều gì không thể. Và hiểu rằng ở những cấp độ phát triển tâm linh cao hơn. Thế giới vật chất có thể được vận dụng bởi tâm thức và nhiều sự việc trở thành có thể thực hiện được.
Trong câu chuyện này, chúng ta thấy người ta bay qua không gian. Những tử thi được hỏa táng làm thành những hình thức điêu khắc và những hiện tượng tâm lý khác nhau. Sau khi chính mình chứng kiến một số trong những hiện tượng này. Tôi yêu cầu độc giả bỏ qua một bên những ý niệm của họ về các giới hạn của tâm và thân và mở mình ra tới những khả năng xa rộng hơn.
Ở Tây Tạng và Ấn Độ, các Yogi phát triển tâm và thân trong khi chúng ta tập trung vào những khám phá khoa học. Chúng ta thành tựu những điều thần diệu của riêng mình với sự phát triển máy truyền hình, điện thoại, máy bay... Đó là những thứ mà hai trăm năm trước dường như hoàn toàn kỳ quái và thần diệu. Trong lúc đó, những người Tây Tạng làm việc trong phòng thí nghiệm của tâm thức và phát triển bản thân trong những ẩn thất cô tịch trong núi non và hang động. Nếu xét về thời gian và sự thiền định được dùng trong sự nghiên cứu và tu hành của họ. Những hiện tượng “thần diệu” dẫn đến kết quả không quá xa lạ.
Machig Lapdron là một phần chính yếu về sự phục hưng vĩ đại của Phật Giáo xảy ra trong thế kỷ XI ở Tây Tạng. Trong thời gian này, có nhiều sự trao đổi giữa Tây Tạng và những trường phái học thuật du già Ấn Độ. Đó là những gì không còn tồn tại khi Phật giáo lụi tàn ở Ấn Độ không lâu sau thời đại của Machig. Có nhiều người hành hương sùng mộ du hành quanh Tây Tạng, Ấn Độ và Nepal. Sự kiện này thúc đẩy phát triển văn hóa và tâm linh. Ắt hẳn là một thời đại rất hứng thú để sống ở Tây Tạng.
Để mang lại ý niệm về pháp Chod Đại Ấn (Mahamudra Chod). Tôi bắt đầu bằng giải thích ngắn về thực hành. Đó là giáo lý chính yếu, nhờ đó Machig Lapdron nổi tiếng. Nền tảng triết học của pháp Chod là Kinh Bát Nhã Ba La Mật. Ngay từ thời thơ ấu, Machig hoàn toàn đắm mình trong giáo lý này. Bởi khi còn là một đứa bé bà đã trở thành một người tụng đọc chuyên nghiệp. Bản văn thường được đọc nhất là bản Kinh này. Người tụng đọc chuyên nghiệp là người có thể đọc rất nhanh. Họ được đưa đến nhà những cư sĩ sùng mộ để đọc trọn vẹn một bản văn trong một thời gian nào đó. Lý lẽ đằng sau điều này có hai phần:
Thứ nhất: Lắng nghe bản văn sẽ mang lại lợi lạc cho những gia chủ, những người bị ngập chìm trong những bận tâm thế tục.
Thứ hai: Việc trì tụng bản văn tạo nên sự tích tập công đức.
Bởi những Phật tử tin rằng: Mọi hành động có những kết quả tích cực. Vì thế một loại dự trữ thiện nghiệp có thể được tích lũy bằng cách tụng đọc lớn những bản văn linh thiêng. Số lần tụng đọc bản văn được xem quan trọng hơn việc thấu hiểu ý nghĩa của nó. Do đó tụng đọc càng nhanh càng tốt. Bằng cách này, người bảo trợ có thể tích lũy thêm công đức trong một quãng thời gian ngắn, ít tốn kém trong việc nuôi dưỡng và hiến tặng cho người tụng đọc. Từ khi còn rất nhỏ, Machig đã là người tụng đọc nhanh lạ thường. Vì thế, bà rất được quý trọng như người tụng đọc chuyên nghiệp. Có lẽ bà đền đáp vị thầy của mình bằng cách làm người tụng đọc của ông.
Mãi cho tới khi bà tiếp xúc với Lạt ma Sonam Drapa - Người chất vấn về sự thấu hiểu của bà và bảo đọc lại những bản văn. Bà mới đạt được nội quán thực sự về giáo lý. Sự kiện này được kết hợp với việc bà tiếp xúc với Phadampa Sangye - Đạo sư của phái An Định Nỗi Đau Khổ (sDug.bsngal Zhi.byed) đã dẫn dắt bà đến sự thấu hiểu thực sự giáo lý bằng trực giác cũng như trí năng.
Bát Nhã Ba La Mật là giáo thuyết triết học rất sâu xa. Nên tôi chỉ phác họa những ý chính để giải thích về pháp Chod. Trước tiên, chúng ta bắt đầu với tâm thái quy ngã mê lầm. Tâm thái này khiến cho chúng ta đau khổ. Vì thế để làm vơi nỗi khổ, nên thực hành thiền định. Những gì xảy ra trong thiền định là: Tâm thức lăng xăng nhặm lẹ bắt đầu tĩnh lặng và các sự việc bắt đầu lắng xuống. Như bùn lắng xuống đáy ly nước khi để nó yên một chỗ. Khi sự lắng đọng xuất hiện. Một loại thấu suốt rõ ràng phương thức những sự việc vận hành trong tâm thức xảy ra. Sự thấu suốt này là Prajna - Trí tuệ sâu xa (Bát Nhã).
Theo giáo lý Phật Giáo, Khi sử dụng Prajna này. Chúng ta bắt đầu nhận thấy: Trong thực tế, mặc dù nghĩ rằng mình có một bản chất riêng biệt và duy nhất. Hay cái ta được gọi là “bản ngã”. Nếu quan sát kỹ lưỡng. “Ta” chỉ là một hỗn hợp của sắc thân bao gồm: Những tri giác quan, ý thức... Đơn thuần là tổ hợp của những bộ phận này. Nhận thức này là sự hiểu biết về Shunyata thường được dịch là tánh Không hay tính chất trống không - Không tự tánh, có nghĩa chúng ta “không có một bản ngã”. Nếu không có một bản ngã thì không có lý do gì để quy ngã. Bởi toàn bộ khái niệm về bản ngã để thương yêu. Không cần liên tục tự bảo vệ hay áp đặt những dục vọng lên những người khác.
Để củng cố và phát triển sự thấu hiểu về vô ngã và phát triển lòng bi mẫn đối với tất cả chúng sinh. Machig đã phát triển thực hành Chod. Thực hành này, sau những sự chuẩn bị khác nhau. Hành giả tiến hành sự cúng dường thân. Đây là cốt tủy của thực hành Chod. “Chod” nghĩa đen là: “Cắt đứt”. Ám chỉ việc cắt đứt sự bám luyến vào thân xác và bản ngã.
Trước tiên hành giả quán tưởng tâm thức lìa khỏi thân qua đỉnh đầu. Tự chuyển hóa thành Dakini phẫn nộ. Sau đó Dakini phẫn nộ cầm con dao cong có hình mặt trăng lưỡi liềm và cắt đứt đỉnh đầu hành giả. Sau đó tách sọ người đặt trên một kiềng ba chân làm bằng ba chiếc sọ trên một ngọn lửa. Phần còn lại của thân bị băm nhỏ và đặt vào sọ đang phát triển vô cùng rộng lớn. Toàn thể tử thi chuyển hóa từ máu và ruột thành chất cam lồ. Đó là món được dọn ra cho mọi loài chúng sinh ta có thể nhận thức được và làm hài lòng ước muốn của những chúng sinh.
Sau khi tất cả chúng sinh đã thỏa thích và hài lòng. Hành giả tự nhắc mình người cúng dường, quá trình cúng dường và những đối tượng được cúng dường. Hoàn toàn “trống không”. Sau đó, gắng an trụ trong trạng thái của sự thấu hiểu. Nghi lễ chấm dứt với những giáo lý rộng lớn về chân tánh của thực tại. Một vài lời cầu nguyện kết thúc cho sự giác ngộ cuối cùng của tất cả chúng sinh.
Nhờ tiến trình này, bốn loài quỷ ma bị đánh bại. Vì đây là những quỷ ma nối kết với bản ngã. Sau khi đã đọc lại những bản văn Bát Nhã Ba La Mật.
Đó là lúc bà thấu hiểu chân tánh của những quỷ ma như những chức năng của bản ngã. Bà đã bắt đầu hình thành pháp Chod. Trước khi tiếp tục giải thích những pháp khí dùng cho nghi lễ. Tôi muốn thảo luận về bốn quỷ ma này. Sự bình giảng này dựa trên bài giảng truyền khẩu được Namkhai Norbu Rinpoche ban cho.
Quỷ ma đầu tiên được gọi là: Con Quỷ Ngăn Trở Các Giác Quan”.
Khi nghĩ về quỷ ma. Ta thường nghĩ đến tinh linh ở bên ngoài tấn công con người. Nhưng Machig nhận ra: Chân tánh của quỷ ma là chức năng bên trong của bản ngã. Quỷ ma đặc biệt này, hiển lộ khi ta nhìn thấy hay kinh nghiệm điều gì đó bằng giác quan và giác quan bị ngăn trở. Nên dính mắc vào đối tượng. Chẳng hạn như: Khi nhìn một phụ nữ hay đàn ông đẹp. Khi nhìn thấy, tri giác sẽ bị phong tỏa bởi sự tham muốn sỡ hữu. Nên tiến trình tri giác ngừng lại, chúng ta cố gắng gặp người đó... Vì thế, đây là tiến trình phải bị thiền định đánh bại. Nếu trong trạng thái thiền định thực sự. Khi tri giác xảy ra vẫn không dính mắc hay tham luyến đối tượng được tri giác.
Quỷ ma thứ hai là: “Con Quỷ Không Thể Kiểm soát”.
Đây là tiến trình-tư tưởng tiếp nối không ngừng. Tiến trình tư tưởng tiếp nối liên tục. Tâm thức lang thang từ sự vật này qua sự vật khác và tỉnh giác hoàn toàn bị mất hút trong sự phóng tâm.
Quỷ ma thứ ba là: “Con Quỷ Dục Lạc”.
Khi kinh nghiệm điều gì thích thú như thức ăn ngon... Ta trở nên dính mắc vào nó. Có nghĩa muốn dùng thêm nữa và tránh bất kỳ điều gì xen vào giữa ta và đối tượng của sự ưa thích. Điều này không có nghĩa tự thân lạc thú là quỷ quái. Đúng hơn là: Sự bám luyến trở thành chướng ngại cho sự an trụ trong trạng thái quang minh. Ví dụ: Thiền giả có thể có giấc mộng tốt lành. Đó là dấu hiệu của sự tiến bộ. Nhưng sau đó, “Con quỷ dục lạc” bắt đầu hoạt động và thiền giả dính mắc vào giấc mộng. Hoặc người nào khác có thể có một thời gian mọi sự tiến hành tốt đẹp. Anh ta cảm thấy dễ chịu về mặt thể chất. Vì thế, anh cố gắng để duy trì thời kỳ này kéo dài bất tận. Những điều ấy phải chấm dứt trong sự thay đổi và rơi vào sự thất vọng.
Quỷ ma thứ tư là: “Con Quỷ Bản Ngã”.
Bản ngã là những gì với nó chúng ta lấy làm chuẩn quy định thế giới của mình. Điều này dựa trên nguyên lý “ta” và “người”. Vì thế, đã tạo nên chướng ngại trong sự tỉnh giác và nhiều đau khổ cho bản thân và người khác.
Về căn bản, tất cả bốn quỷ ma là những tiến trình tư tưởng cản trở trạng thái tỉnh giác trong trẻo không vướng mắc. Chúng phát sinh từ tiến trình của sự chấp ngã và thiếu trí tuệ (Bát Nhã). Hậu quả là sự ngộ nhận về tánh Không. Nên thực hành Chod là nhắm vào việc tiêu diệt bốn quỷ ma này.
Thực hành Chod sử dụng bốn phương pháp tạo ra âm thanh:
1- Tiếng người.
2- Tiếng trống.
3- Chuông.
4- Kèn làm bằng xương đùi người.
Trống có kích thước vòng tròn. Khi đặt bàn tay trên hông tương tự như trống được các pháp sư Sha-man ở Xi bê ri và những thầy tu đạo Bon trong tôn giáo địa phương của Tây Tạng sử dụng. Nó có 2 mặt, tượng trưng cho nam và nữ, với hai trái banh nhỏ treo từ những sợi dây ở bên này hay bên kia. Khi trống được sử dụng, những trái banh nhỏ này đánh vào mặt bên kia của cái trống tượng trưng cho sự bất khả phân của chân lý tuyệt đối và tương đối. Trống tạo nên âm thanh trầm trầm nhịp nhàng như bước chân. Kèm theo bởi cái chuông được cầm ở bàn tay trái. Tượng trưng Pháp giới nguyên sơ thuộc nữ tính.
Vào thời điểm thịt hành giả chuyển hóa; cúng dường cho những quỷ ma. Tất cả âm thanh vang lên, tạo thành một âm điệu rên rỉ kỳ quái. Người ta hát trong suốt lúc thực hành. Các giai điệu biến đổi phù hợp với truyền thống hành giả theo học. Mỗi giai điệu có lịch sử của riêng; được các hành giả Chod (gọi là Chodpa) phát triển sau nhiều năm thực hành.
Toàn bộ tác dụng của những âm thanh này kết hợp. Tạo thành bài tụng ca cảm động với ấn tượng sâu xa trong giai điệu đẹp đẽ. Vì thế, sử dụng âm thanh là một bộ phận chính yếu của thực hành Chod. Từ những âm thanh này, tạo nên sự rung động trong thân. Đó là điều không xảy ra nếu sự thực hành chỉ trì tụng trong yên lặng.
Theo truyền thống. Pháp Chod được thực hành ở những nơi ghê rợn. Chẳng hạn như dưới những gốc cây đơn độc (nơi được cho là có quỷ ma cư trú) và trong những nghĩa địa. Ví dụ như trong tiểu sử của A-Yu Khandro. Cuộc chạm trán trực tiếp với những nỗi sợ hãi và việc vượt lên nhờ thấu hiểu bản tánh đích thực của những quỷ ma là điểm trọng yếu của thực hành Chod.
Người Tây Tạng rất sợ quỷ ma đến nỗi nhiều người sợ pháp thực hành Chod. Nên được cân nhắc rất bí mật. Có lần tôi gặp một ni cô khi còn trẻ đã đến hang động để thực hành Chod. Bà nhìn thấy điều gì đó, khiến bà sợ tới nỗi phải thực hành pháp A Di Đà - Đức Phật An Bình của cõi Tịnh độ Tây phương trong chín năm để hồi phục. Khi tôi gặp thì bà đã rất già và vẫn còn hơi mất trí.
Sự tu hành pháp Chod chỉ xảy ra trong các học viện được thành lập đặc biệt dành cho sự nghiên cứu và cần ít nhất năm năm. Gần cuối khóa tu những học viên được gởi đi thành từng nhóm và cuối cùng sẽ ở một mình. Các Chodpa luôn được mời đến, khi có những nạn dịch truyền nhiễm chẳng hạn như dịch tả. Họ chăm sóc những tử thi, băm nhỏ xương và hướng dẫn tang lễ. Hình như họ miễn nhiễm với dịch bệnh. Đôi khi, các Chodpa cũng được mời đến để làm những nghi lễ trừ tà.
Những hành giả Chod chỉ mặc những bộ quần áo bị vứt bỏ đi. Ăn thực phẩm của hành khất và sống ở những nơi hầu hết mọi người ghê tởm không muốn đến. Tất cả những điều này dựa theo gương mẫu của Machig Lapdron - Người đã sống theo cách này, và không quan tâm đến những giới hạn theo quy ước bề ngoài và cách hành xử. Những hành giả Chod du hành một mình hay thành từng nhóm và thực hành Chod ở những nơi thích hợp trên đường đi. A-Yu Khandro đã tuân theo các giáo lý của Machig Lapdron và sống cuộc đời của một Chodpa trong nhiều năm. Tiểu sử này được lấy từ Pungpo Zankur Gyi Namshe Chodkyi Don Sal.
Theo khẩn cầu của các đệ tử, câu chuyện được Machig thuật lại như thế. Được Jamgon Lodro Taye biên soạn theo khẩn cầu của Choje Kunga Jamyang vào thế kỷ XIX. Mặc dù, được quả quyết là do chính Machig viết ra. Nhưng vẫn có thể là sự kết hợp một vài tiểu sử Jamgon Kongtrul tìm thấy trong khi nghiên cứu rộng rãi những bản văn cổ.
Ghi thay lời giới thiệu, trích đoạn từ "Tiểu sử Machig Lapdron", Nội dung đọc web đang cập nhật, xin vui lòng đọc và tải file PDF tại đây: https://lienhoaquang.com/thu-vien_TIEU-SU-MACHIG-LOPDRON_skqkssl_xem-PDF_tuequang.html