Tám Đề Mục Chuyển Hoá Tâm
Đạt Lai Lạt Ma
(Phần 2) 6- Khi những ai đấy mà tôi đã từng làm lợi ích đến và trong những ai đấy tôi đã từng có những niềm hy vọng lớn lao lại mang đến cho tôi những tai họa khủng khiếp, tôi sẽ nhìn người ấy như bậc đạo sư thánh thiện của tôi. Thông thường chúng ta dự tưởng rằng những ai đấy mà mình từng giúp đỡ những gì to tát là phải rất biết ơn chúng ta và nếu họ lại hành động đến mình với sự vô ơn chắc là chúng ta phải giận dữ. Trong những trường hợp như thế, chúng ta không nên khó chịu nhưng thay vì thế phải thực hành nhẫn nại. Hơn thế nữa, chúng ta nên thấy những người như thế là những vị thầy thử thách sự nhẫn nhục của chúng ta và vì thế nên đối xử với họ một cách tôn trọng. Đề mục này chứa đựng tất cả trong “
Hướng dẫn về đời sống của con đường Bồ tát” về nhẫn nhục.
7- Trong vắn tắt, cả trực tiếp và gián tiếp, tôi xin dâng hiến mọi niềm hạnh phúc, an lạc và lợi ích đến tất cả những bà mẹ của tôi. Tôi sẽ gánh vác một cách bí mật trên tôi tất cả những hành động tai hại và khổ đau của họ. Điều này hướng đến việc thực hành gánh vác trên chính chúng ta tất cả những khổ đau của những người khác và dâng hiến đến họ tất cả những niềm hạnh phúc, an lạc của chúng ta, động cơ thúc đẩy bởi lòng từ bi và yêu thương mạnh mẽ. Tự chính chúng ta muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau và có thể thấy rằng tất của hữu tình chúng sinh cũng cảm nhận như thế. Chúng ta cũng có thể thấy rằng những hữu tình chúng sinh khác ngập tràn khổ đau nhưng không biết làm thế nào để lìa xa chúng. Vì vậy, nên phát sinh ý niệm gánh vác tất cả những khổ đau và nghiệp báo tiêu cực và nguyện cầu cho nó chín muồi, trổ quả trên chính chúng ta ngay lập tức. Giống như thế, rõ ràng những hữu tình chúng sinh trống vắng hạnh phúc, họ tìm kiếm nhưng không biết làm thế nào để gặp được hạnh phúc. Vì vậy, không có chút gì bỏn xẻn xen lẫn, chúng ta nên dâng hiến cho họ tất cả những hạnh phúc của chúng ta – thân thể, phú quý và công đức – và cầu nguyện cho những điều này chín muồi, kết quả trên họ ngay lập tức.
Dĩ nhiên, không chắc rằng chúng ta thật thực sự có thể gánh vác những khổ đau của kẻ khác và trao tặng hạnh phúc của chúng ta cho họ. Khi những hoán chuyển như thế giữa những hữu tình chúng sinh thật sự xảy ra, nó là kết quả của một số liên hệ nghiệp quả liên tục rất mạnh mẽ nào đấy từ quá khứ kiếp. Tuy thế, sự thiền định đề mục này là rất mãnh liệt có ý nghĩa của việc xây dựng nên sự can đảm trong tâm chúng ta và vì thế là một thực hành có lợi ích cao thượng.
Trong “
Bảy điểm chuyển hóa tâm” nói rằng chúng ta nên luân phiên thực hành “cho và nhận” và trang bị chúng trên từng hơi thở. Và ở đây, Langri Tangpa nói rằng những điều này nên được hoàn thành một cách bí mật. Khi nó được giải thích trong “
Hướng dẫn về đời sống của con đường Bồ tát”, điều thực hành này không thích hợp với tâm lý những Bồ tát sơ tâm – nó là những gì được chọn lựa ở một số ít hành giả. Vì thế, nó được gọi là bí mật.
HỎI: Trong “Hướng dẫn về đời sống của con đường Bồ tát”, Bình Thiên Tôn Giả nói rằng: “…nếu vì lợi ích của kẻ khác mình làm tổn hại chính mình, tôi sẽ đảm nhận tất cả, điều ấy thật cừ khôi, trác tuyệt. Mặt khác, Tổ Sư Long Thọ nói rằng, chúng ta không nên hành hạ thân thể mình. Thế thì, trong phương thức nào của Tôn Giả Bình Thiên lại có ý nghĩa một người nên làm tổn hại chính mình? ĐÁP: Điều này không có nghĩa là chúng ta phải tự đánh vào đầu mình hay những việc tương tự. Tôn Giả Bình Thiên (Shantideva) đang nói rằng tại nhưng thời điểm khi những tư tưởng tự luyến ái khởi lên mãnh liệt chúng ta phải tranh luận rất mạnh mẽ với chính mình và dùng những ý nghĩa sinh động đầy sức thuyết phục để chinh phục hay làm dịu chúng xuống; trong ý nghĩa khác, chúng ta phải tự làm tổn hại hay hao mòn tâm thức tự ngã ái luyến chính mình. Chúng ta phải phân biệt rõ ràng giữa cái "tôi" hoàn toàn bị ám thị với những quyền lợi của chính nó và cái "tôi" sẽ trở nên giác ngộ: đấy là một sự khác biệt lớn lao. Và chúng ta phải thấy câu này của “Hướng dẫn về đời sống của con đường Bồ tát”, trong văn bản với những dòng này trước và thực hành theo. Có nhiều cách khác nhau cái "tôi" được bàn cải: sự vướng mắc chấp trước chính là đặc tính của cái "tôi", ái luyến tự ngã, cái "tôi" mà chúng ta phối hợp với nó trong sự quán sát những sự kiện từ quan điểm của những kẻ khác và v.v... Chúng ta phải thấy sự bàn luận về tự ngã trong những luận giải khác nhau.
Nếu nó thật sự lợi ích cho người khác, nếu nó lợi ích ngay cả cho một chúng sinh, nó xứng đáng cho chúng ta đảm đương trên chính mình những khổ đau hiện hữu trong tam giới hay đi đến một trong những địa ngục, và chúng ta nên có sự can đảm, dũng cảm để làm điều này. Để đạt đến giác ngộ vì lợi ích của chúng sinh chúng ta nên hoan hỉ, quyết tâm và tự nguyện để sống ở địa ngục thấp nhất, ngục A tỳ, trong thời gian vô tận. Đây là ý nghĩa của việc đảm đương những tổn hại, điều làm khổ sở, đớn đau, ưu phiền của kẻ khác trên chính chúng ta.
HỎI: Chúng ta phải làm gì để vào địa ngục thấp nhất? ĐÁP: Điểm để phát triển lòng quả cảm, can đảm, dũng mãnh là quyết tâm tự nguyện để đi đến một trong những địa ngục; nó không có nghĩa là chúng ta thật sự phải đi đến đấy. Khi hành giả Kadampa geshe Chekawa đang sắp viên tịch, ngài đột nhiên gọi đệ tử của ngài và yêu cầu họ làm những sự cúng dường, những đàn tràng và cầu nguyện cho ngài bởi vì những sự hành trì của ngài đã không thành tựu. Những đệ tử rất bất an bởi vì họ nghĩ rằng có điều gì kinh khiếp không lành sẽ xảy ra. Tuy nhiên, ngài giải thích rằng, mặc dù suốt cuộc đời ngài đã từng cầu nguyện để được sinh ra trong những địa ngục vì lợi ích của kẻ khác, giờ đây, ngài tiếp nhận một linh cảm thuần khiết của những gì sẽ tiếp diễn - ngài sẽ được tái sinh ở cõi Tịnh Độ thay vì ở địa ngục - và đấy là tại sao ngài bối rối. Cũng như thế, nếu chúng ta phát triển một nguyện ước mãnh liệt, chân thành để tái sinh trong những cảnh giới thấp nhất vì lợi ích của những chúng sinh khác, chúng ta sẽ tích tập được một công đức to lớn vô biên và điều ấy sẽ mang đến những kết quả ngược lại.
Đó là tại sao chúng tôi nói rằng, nếu chúng ta ích kỷ thì chúng ta nên ích kỷ một cách thông minh. Thực tế, hay hẹp hòi, ích kỷ làm nguyên nhân chúng ta đi xuống; thông minh ích kỷ đưa chúng ta đến Phật quả. Điều ấy thật sự thông tuệ! Bất hạnh thay, điều chúng ta thường làm trước nhất là đến với Phật quả. Theo kinh điển, chúng ta hiểu rằng để đạt đến Phật quả chúng ta cần tâm bồ đề và nếu không có nó chúng ta không thể trở nên giác ngộ; vì vậy chúng ta nghĩ, "tôi muốn quả Phật, vì thế tôi phải thực hành bồ đề tâm." Chúng ta không quá quan tâm nhiều đến bồ đề tâm cũng như Phật quả. Điều này là sai lầm một cách chắc chắn. Chúng ta phải làm ngược lại; hãy quên động cơ ích kỷ và thật sự nghĩ làm thế nào để giúp kẻ khác.
Nếu chúng ta đến địa ngục chúng ta không thể giúp đỡ cho người khác hay chính mình. Chúng ta làm thế nào để giúp? Không phải chỉ bằng bố thí cho họ vài thứ gì đấy hay thi thố thần thông, nhưng bằng diễn giảng giáo pháp. Tuy nhiên, trước nhất chúng ta phải có đủ năng lực để giảng dạy. Hiện tại chúng ta không thể giải thích toàn bộ con đường - tất cả những sự hành trì và kinh nghiệm mà một người phải tiến từng bước từ trình độ thứ nhất đến cuối cùng, giác ngộ. Có thể chúng ta có thể giải thích một vài cấp độ sơ cơ qua kinh nghiệm của chính chúng ta, nhưng không thể nhiều hơn thế. Để có thể hỗ trợ những người khác trong phương pháp rộng rãi nhất bằng sự hướng dẫn họ theo toàn bộ con đường giác ngộ, trước hết chúng ta phải giác ngộ cho chính mình. Vì lý do này chúng ta nên thực hành tâm bồ đề. Điều này hoàn toàn khác biệt với cách suy nghĩ thông thường của chúng ta, khi mà chúng ta bị buộc phải nghĩ về những người khác và dâng hiến trái tim của chúng ta cho họ do bởi sự quan tâm ích kỷ về sự giác ngộ của chính chúng ta. Cách này hướng về những thứ hoàn toàn sai lạc, một loại lừa phỉnh.
HỎI: Tôi đọc trong một quyển sách nói rằng chỉ bằng thực hành giáo pháp chúng ta ngăn ngừa chín thế hệ thân quyến của chúng ta phải sinh vào địa ngục. Điều ấy có đúng không? ĐÁP: Đấy là một ít phô trương! Thật sự khã dĩ những việc như thế có thể xãy ra, nhưng thông thường nó không quá đơn giản như thế. Thí dụ, chúng ta trì niệm mật ngôn OM MANI PADME HUM và dâng hiến công đức ấy cho sự nhanh chóng đạt đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh. Chúng ta có thể nói rằng chỉ bằng sự trì niệm mật ngôn chung ta sẽ tốc chứng giác ngộ, nhưng chúng có thể nói rằng những sự thọ trì như thế hành động như sự đóng góp cho NHÂN của giác ngộ. Giống như thế, trong khi sự thực hành giáo pháp của chúng ta sẽ không tự hỗ trợ thân quyến của chúng ta không đến những sự tái sinh thấp hơn, nhưng nó có thể hoạt động như một sự góp phần cho NHÂN này.
Cho dù đây không phải là trường hợp, nếu sự hành trì của chúng ta hoạt động như nguyên nhân chính yếu của một kết quả kinh nghiệm bởi những người khác, nó sẽ mâu thuẫn với luật nghiệp báo, sự liên hệ giữa nguyên nhân và hiệu quả. Thế thì chúng ta chỉ giản dị ngồi lại và nghỉ ngơi thoải mái và để chư Phật cùng các vị Bồ Tát làm mọi thứ cho chúng ta; chúng ta sẽ không phải nhận lấy một trách nhiệm nào đối với lợi ích của chính mình. Tuy thế, Đấng giác ngộ hoàn toàn đã từng nói rằng tất cả những gì ngài có thể làm là giảng dạy, chỉ dẫn chúng ta giáo pháp, con đường giải thoát khỏi khổ đau, và thế là nó tuỳ thuộc vào chúng ta đặt mình vào sự thực hành - Ngài đã rửa tay của Ngài đối với trách nhiệm ấy! Như đạo Phật đã dạy rằng không có đấng tạo hoá và rằng chúng ta tạo dựng mọi thứ cho chính chúng ta, vì thế chúng ta là đạo sư của chính chúng ta - trong giới hạn của luật nhân quả. Và đây là luật nghiệp báo dạy rằng nếu chúng ta làm việc lành chúng ta sẽ trải qua kết quả kinh nghiệm lành và nếu chúng ta làm việc xấu chúng ta sẽ phải trải qua những kinh nghiệm của bất hạnh, khổ đau.
HỎI: Làm thế nào để phát triển nhẫn nhục? ĐÁP: Có rất nhiều phương pháp. Tri thức và tin tưởng vào luật nghiệp báo tự chính nó sinh ra nhẫn nhục. Chúng ta nhận thức rằng, "điều khổ đau này tôi đang gánh chịu là lỗi lầm của tôi hoàn toàn, kết quả của những hành động của chính tôi tạo nên trong quá khứ. Vì rằng tôi không thể tránh khỏi nó tôi phải sống với nó. Tuy vậy, nếu tôi muốn tránh khổ đau trong tương lai tôi cũng có thể hành động bằng sự phát triển đạo đức như nhẫn nhục chẳng hạn. Tức tối hay giận dữ với khổ đau này sẽ chỉ tạo nên những nghiệp tiêu cực, nguyên nhân của bất hạnh tương lai". Đây là một cách thực hành nhẫn nhục.
Một việc khác chúng ta có thể làm là thiền định trên sự khổ đau tự nhiên của thân thể: "Thân thể và tâm thức này là cơ sở của tất cả những khổ đau, nó là tự nhiên và không có cách nào trông mong rằng khổ đau ơi, đừng khởi lên." Loại nhận thức này hỗ trợ rất hiệu quả cho việc phát triển nhẫn nhục.
Chúng ta cũng có thể nhắc lại những gì đã nói trong “
Hướng dẫn về đời sống của con đường Bồ tát” (Bodhicaryavatara):
Tại sao không vui vẻ với những gì Nếu nó có thể được cứu chữa? Và điều gì là thói quen của chúng sinh không vui vẻ về những gì Nếu nó không thể được cứu chữa? Nếu có một phương pháp vượt thoát khổ đau hay một cơ hội để làm như thế, chúng không phải lo lắng. Nếu thật sự không có gì chúng ta có thể làm để thoát khổ, lo lắng không giúp được gì cả. Điều này thật đơn giản và rất rõ ràng.
Những gì khác chúng ta có thể làm là suy tư sự bất lợi của tức giận và thuận lợi của thực hành nhẫn nhục. Chúng ta là những con người - một trong những phẩm chất hơn hẳn của chúng ta là khã năng suy nghĩ và phán đoán của chúng ta. Nếu chúng ta mất nhẫn nại và lại tức giận, chúng ta mất đi khã năng để thực hiện những phán xét cụ thể và vì thế mất đi một trong những công cụ hiệu lực nhất mà chúng ta có để giải quyết những vấn nạn: đấy là tuệ trí của con người. Đây là những gì mà thú vật không có. Nếu chúng ta mất đi nhẫn nhục, và lại cáu tức chúng ta đang làm tổn hại đến công cụ quý giá này. Chúng ta nên nhớ điều này; nó càng tốt hơn nhiều để có can đảm và quyết định và đối diện với khổ đau bằng nhẫn nhục.
HỎI: Làm thế nào chúng ta có thể khiêm tốn hay bình thường trong khi cùng lúc hiện thực về những phẩm chất tốt đẹp mà chúng ta sở hữu? ĐÁP: Chúng ta phải phân biệt giữa sự tin tưởng vào những khả năng và tự hào của chúng ta. Chúng ta phải nên tin tưởng vào bất cứ những phẩm chất và khã năng thiện xảo mà chúng ta có và sử dụng chúng một cách quả cảm, can trường, nhưng chúng ta không nên có cảm xúc kiêu căng, ngạo mạn, tự mãn về chúng. Hiện hữu khiêm tốn hay bình thường không có nghĩa là cảm thấy hoàn toàn bất tài, kém cỏi, và không tự lo liệu được. Sự khiêm tốn nhún nhường được phát triển như sự đối lập với tự kiêu, nhưng chúng ta nên sử dụng bất cứ những phẩm chất tốt đẹp nào mà chúng ta có đến sự trọn vẹn của nó.
Một cách lý tưởng, chúng ta nên có một sự đáp ứng rộng rãi của lòng can trường, quả cảm và năng lực nhưng không phải là sự khoác lác, niềm kiêu hảnh hay làm một sự phô trương lớn về nó. Rồi thì, những khi cần, chúng ta nên vươn lên đến những trường hợp cụ thể và chiến đấu một cách dõng mảnh cho những gì đúng. Điều này là toàn hảo. Nếu chúng ta không có những phẩm chất tốt đẹp này mà lại khoác lác mọi nơi rằng chúng ta vĩ đại thế nào và trong khi cần thiết lại co đầu rút cổ lại một cách hoàn toàn, chúng ta chỉ là ngược lại. Người thứ nhất thì rất can đảm, quả cảm nhưng không tự hào; người kia thì rất tự kiêu nhưng không có can trường, dũng cảm.
8- Thuần khiết trước những vết nhơ của sự mê tín, vướng mắc trên tám sự lưu tâm thế gian, nguyện cho tôi, bằng sự nhận thức tất cả những hiện tượng như ảo tưởng, được giải thoát khỏi sự trói buộc của vướng mắc, chấp trước. Đề mục này tương ứng với tuệ trí. Tất cả những thực hành trước không nên bị nhuốm bẩn bởi những vết nhơ của mê tín, vướng mắc đối với tám pháp thế gian (Bát phong: khổ - vui, được – mất, hơn – thua, khen – chê). Tám điều này có thể liên hệ như trắng, đen hay lẫn lộn. Chúng tôi nghĩ rằng nó sẽ hoàn hảo nếu chúng tôi giải thích đề mục này từ quan điểm của những sự thực hành được hoàn tất mà sự hiện hữu của chúng không bị nhuốm bẩn bởi nhận thức sai lạc của vưởng mắc đến sự tồn tại thật sự- sự mê tín, chấp trước của tám pháp thế gian.
Làm thế nào một người có thể tránh bị nhuốm bẩn sự thực hành của mình trong cách này? Bằng sự nhận thức tất cả sự hiện hữu hay tồn tại như ảo tưởng và không liên hệ với sự tồn tại thật sự. Trong cách này, một người được giải thoát khỏi trói buộc của loại liên hệ hay bám víu này.
Để giải thích ý nghĩa của "ảo tưởng" ở đây: sự tồn tại thật sự xuất hiện trong khía cạnh của nhiều đối tượng khác nhau, bất cứ nơi nào chúng là rõ ràng hiển nhiên, nhưng thực tế không có sự tồn tại thật sự ở đó. Sự tồn tại thật sự xuất hiện, nhưng không có gì- nó là một ảo tưởng. Mặc dù mọi thứ tồn tại xuất hiện như sự hiện hữu một cách thật sự, nó thì trống rỗng, một sự tồn tại trống rỗng. Thấy những đối tượng là trống rỗng của hiện hữu - rằng ngay cả sự tồn tại thật sự xuất hiện, không có gì, nó là ảo ảnh, hảo huyền, không thực có - một người phải nên định rõ sự hiểu biết về ý nghĩa của tính không: tính không xuất hiện rõ ràng, sự xuất hiện rõ ràng của tính không.
Trước nhất một người nên chắc chắn rằng tất cả mọi hiện tượng là trống không của sự tồn tại thật sự. Rồi thì về sau, khi mà có điều thuần tuý tự nhiên xuất hiện là tồn tại một cách thật sự, người ấy phản bác lại sự tồn tại thật sự bằng sự nhắc lại điều hiểu biết chắc chắn của mình trước đây là hoàn toàn vắng bóng của sự tồn tại thật sự. Khi chúng ta đặt hai điều này chung với nhau - sự hiện hữu của sự tồn tại thật sự và tính không của nó như kinh nghiệm trước đây - chúng ta khám phá sự ảo tưởng của mọi hiện tượng.
Tại thời điểm này không cần một sự giải thích về phương thức những sự kiện xuất hiện như ảo tưởng tách rời với những điều vừa trình bày. Bài này chì giải thích đến sự thiền định trên tính không. Mật tông tantric giảng dạy như Guhyasamaja tantra, rằng điều gọi là ảo tưởng thì hoàn toàn riêng biệt; trong đề mục này. điều được gọi là ảo tưởng không phải được biểu hiện một cách riêng biệt. Vì vậy, sự tồn tại thật sự của điều hoàn toàn tự nhiên là đối tượng của sự phản bác và nên bị bẻ lại. Khi những sự kiện, sự vật xuất hiện dưới phương thức ảo tưởng hưng khởi một cách gián tiếp: chúng dường như là tồn tại một cách thật sự nhưng chúng không như thế.
HỎI: Làm thế nào những thứ không thể tìm thấy và tồn tại một cách đơn thuần bởi sự đổ vấy cho cơ chế vận hành? ĐÁP: Điều ấy thật khó khăn. Nếu chúng ta có thể nhận thức rằng chủ thể và hành động tồn tại bởi lý do của sự hiện hữu tùy thuộc hưng khởi, tính không sẽ xuất hiện trong sự tùy thuộc hưng khởi hay duyên khởi. Đây là điều khó khăn nhất để hiểu.
Nếu chúng ta đã từng nhận thức rõ vô hữu thực hữu tồn tại, kinh nghiệm của đối tượng tồn tại nói lên chính nó. Rằng chúng tồn tại bởi tự nhiên bị bác bỏ một cách hợp lý (logic), và chúng ta có thể chắc chắn một cách hợp lý rằng những sự kiện không (tồn tại) - không có cách nào chúng có thể (tồn tại) – tồn tại một cách cố hữu. Tuy nhiên chúng hiện hữu một cách rõ rệt bởi vì chúng ta biết, thấy, cảm nhận, và kinh nghiệm chúng. Vậy thì chúng tồn tại như thế nào? Chúng tồn tại một cách đơn thuần bởi năng lực của danh xưng. Điều này không đang nói rằng chúng không tồn tại; nó chưa bao giờ nói rằng những sự kiện không tồn tại. Thế thì điều gì được nói là chúng tồn tại bởi năng lực của danh xưng. Đây là một điểm khó; những gì mà chúng ta có thể hiểu một cách chậm rãi, một cách chậm rãi qua kinh nghiệm.
Trước nhất chúng ta phải phân tích hoặc là những thứ tồn tại thực sự hay là không, thật sự có thể tìm thấy hay không: chúng ta không thể tìm thấy chúng. Nhưng nếu chúng ta nói rằng chúng thật không tồn tại gì cả, đây là một lỗi lầm, bởi vì chúng ta quả có kinh nghiệm về chúng. Chúng ta không thể chứng minh qua lý luận hợp lý (logic) rằng những sự kiện tồn tại một cách có thể tìm thấy, nhưng chúng ta quả biết qua kinh nghiệm rằng chúng tồn tại. Vì vậy, chúng ta có thể làm một kết luận rõ ràng rằng những thứ ấy quả tồn tại. Bây giờ, nếu những thứ ấy tồn tại chỉ có hai cách trong điều chúng có thể làm như thế: hoặc là từ căn bản của chính chúng hoặc là bởi dưới sự kiểm soát của những nhân tố khác, đấy là, hoàn toàn độc lập hoặc là một cách lệ thuộc. Vì lý luận hợp lý không thể chứng minh rằng những thứ ấy tồn tại một cách độc lập, thì chỉ còn cách là chúng có thể tồn tại một cách tùy thuộc.
Trên điều gì làm những thứ ấy tùy thuộc cho sự tồn tại cuả chúng? Chúng tùy thuộc trên căn bản được gắn nhãn hiệu và sự tư duy những nhãn hiệu ấy. Nếu chúng có thể tìm thấy được khi truy tầm, chúng phải tồn tại bởi tính tự nhiên của chính chúng, và vì vậy Trung Quán Luận nói rằng, những thứ ấy không tồn tại bởi tính tự nhiên của chính chúng, sẽ là sai. Tuy nhiên, chúng ta không thể tìm thấy những thứ ấy khi truy tầm chúng. Những gì chúng ta tìm thấy tồn tại dưới sự khống chế của những nhân tố khác, vì vậy điều được nói là tồn tại chỉ đơn thuần trong danh xưng. Từ ngữ “đơn thuần” ở đây chỉ cho biết là những thứ gì ấy đang bị cắt đứt: nhưng điều gì đang bị cắt đứt thì không phải là danh xưng, nó cũng không là điều có một ý nghĩa và là đối tượng của một tâm thức có căn cứ. Chúng ta không đang nói rằng không có ý nghĩa gì đến những thứ khác hơn là những danh xưng của chúng, hay là ý nghĩa không phải là danh xưng không là đối tượng của một tâm thức có sở cứ. Điều gì bị cắt đứt là điều mà nó tồn tại bởi những thứ khác hơn là năng lực của những danh xưng. Những thứ tồn tại đơn thuần bởi năng lực của danh xưng, nhưng chúng có ý nghĩa, và ý nghĩa ấy là đối tượng của một tâm thức có sở cứ. Nhưng tính tự nhiên của những thứ ấy là chúng tồn tại thường là bởi năng lực của danh xưng.
Không có cách nào khác, chỉ là năng lực của danh xưng. Điều ấy không có nghĩa là bên cạnh danh xưng không có gì. Có sự kiện, có một ý nghĩa và có một danh xưng. Ý nghĩa là gì? Ý nghĩa cũng tồn tại đơn thuần trong danh xưng.
HỎI: Tâm là những gì mà tồn tại một cách thật sự hay nó cũng chỉ là một ảo tưởng? ĐÁP: Nó cũng giống như thế. Theo trường phái Trung Quán Prasangika, quan điểm tối thượng, chính xác nhất, nó cũng giống như thế cho dù nó là một đối tượng bên ngoài hay là nhận thức bên trong hiểu rõ, thấy rõ, nhận thức thấu đáo nó: cả hai tồn tại bởi năng lực của danh xưng; không có thứ nào thật sự tồn tại. Tư duy tự nó tồn tại đơn thuần trong danh xưng; tính không, Phật, tốt, xấu, và trung tính cũng thế thôi. Mọi thứ tồn tại duy chỉ bởi năng lực của danh xưng.
Khi chúng ta nói “duy chỉ danh xưng” thì không có cách nào để hiểu nó có ý nghĩa gì khác hơn là nó cắt đứt những ý nghĩa mà những ý nghĩa không chỉ là danh xưng. Thí dụ, nếu chúng ta lấy một người thật sự và một người ảo tưởng, cả hai là giống nhau trong điều họ tồn tại chỉ đơn thuần là danh xưng, nhưng có một sự khác nhau giữa họ. Bất cứ điều gì tồn tại hay không tồn tại chỉ đơn thuần là nhãn hiệu gắn lên, nhưng trong danh xưng, có những thứ tồn tại và những thứ khác không tồn tại.
Theo trường phái Duy Tâm (hay duy thức) những hiện tượng bên ngoài xuất hiện vốn dĩ tồn tại, nhưng thực tế là sự tồn tại bên ngoài vốn dĩ trống không, trong khi ấy tâm là thật sự tồn tại (Thị chư thức chuyển biến, Phân biệt sở phân biệt, Do thử bỉ giai vô, Cố nhất thiết duy thức). Đến đây, chúng tôi nghĩ rằng điều này cũng đủ về giáo lý đạo Phật.
HỎI: Có phải “tâm” và “thức” là những thuật ngữ tương đương? ĐÁP: Có những sự phân biệt trong tiếng Tây Tạng, nhưng thật khó khăn để nói có hay không những từ ngữ tiếng Anh mang cùng ý nghĩa. “Tâm” (mind) liên hệ đến thức chính yếu (tâm vương) nó hầu như giống với “thức” (bát thức-consciousness). Trong tiếng Tây Tạng, “tỉnh thức” (awareness) là thuật ngữ thông dụng nhất và được phân chia thành thức chính yếu (tâm vương) và những nhân tố tinh thần thứ yếu (tâm sở), cả hai có những sự phân chia thêm nữa. Cũng thế, khi chúng ta nói về tỉnh thức thì có tỉnh thức của tinh thần và tỉnh thức của giác quan, và trước đây có nhiều sự phân chia thành những trình độ của thô và vi tế. Có hay không những từ ngữ tiếng Anh tương ứng với thuật ngữ Tây Tạng một cách chính xác …thì thật khó khăn để nói.
Xem phần 1 tại đây: https://lienhoaquang.com/thu-vien_Tam-De-Muc-Chuyen-Hoa_mpkstgkl_web_baingan.html --- His Holiness the Dalai Lama gave this teaching in Dharamsala, 7 October 1981. It was translated by Alexander Berzin, clarified by Lama Zopa Rinpoche, edited by Nicholas Ribush and first published in the souvenir booklet for Tushita Mahayana Meditation Centre's Second Dharma Celebration, November 5-8 1982, New Delhi, India. Published in 2005 in the LYWA publication Teachings from Tibet. http://www.lamayeshe.com/index.php?sect=article&id=381 The Eight Verses of Thought Transformation By His Holiness the Dalai Lama Tuệ Uyển chuyển ngữ Nguồn: thuvienhoasen.org