TRUYỀN THỐNG TERMA CỦA TRƯỜNG PHÁI NYINGMA
Người có thiện tâm, thậm chí nếu vào thời không có Phật, sẽ nhận được Giáo Pháp từ giữa bầu trời, tường vách, và cây cối. Với những vị Bồ Tát này, tâm họ thanh tịnh, thì giáo lý và các chỉ dạy sẽ xuất hiện chỉ bằng vào mong ước trong tâm họ. LỜI PHẬT DẠY Trong số lớn các truyền thống tâm linh của thế gian, có nhiều trường hợp phát hiện giáo lý và đồ vật qua năng lực thần bí. Tương tự, trong nhiều truyền thống và dòng truyền Phật giáo khác nhau ở Ấn Độ cũng như Tây Tạng, rất nhiều khám phá giáo lý và pháp khí đã xảy ra.
Trong phái
Nyingma của Phật giáo Tây Tạng, truyền thống chôn giấu, phát hiện giáo lý và những pháp khí tôn giáo giá trị nhờ vào năng lực thần bí của các bậc đã giác ngộ cho đến nay là rất phổ biến. Truyền thống phát hiện thần bí này được biết ở Tây Tạng là
Ter (gTer, “Kho tàng”), Terma (gTer Ma, “Kho tàng của Bậc giác ngộ”), hoặc Tercho (gTer Ch’os, “Kho tàng Giáo Pháp” hay “Kho tàng Giáo lý”). Ter không thuộc về phạm trù phát hiện qua năng lực siêu linh (
rTsa Khams) hoặc qua các sinh linh của thế giới tâm linh (
Mi Ma Yin). Những phát hiện siêu linh xảy ra qua năng lực của tâm, một loại năng khiếu nhưng do nhận thức dựa trên khái niệm. Hơn nữa, phần lớn tinh linh có năng lực vật lý và kiến thức hơn nhân loại bình thường, nhưng trí tuệ tâm linh và công đức thật sự của họ có giới hạn. Sự phát hiện
Terma xảy ra từ bản tánh toàn giác của tâm qua năng lực trí tuệ tự hiện của chính tánh giác ngộ, trái lại các phát hiện khác là qua khái niệm nhị nguyên và hành động siêu nhiên.
Trong Phật giáo Đại thừa nói chung và đặc biệt là trong
tantra, thật tánh của pháp giới được thấy như an bình tối thượng, rỗng không, rộng mở, trạng thái giác ngộ hay tỉnh thức, cực lạc, nhất như, thoát khỏi khái niệm nhị nguyên, và trí tuệ của cái biết toàn khắp cùng lúc, và điều đó được biết như trạng thái của bản tánh toàn giác hay Đức Phật. Những người theo Đại thừa, bao gồm các hành giả mật tông, tin rằng thật tánh của tâm chúng sanh thanh tịnh như Đức Phật, nhưng tâm đó bị che ám bởi quan điểm, cảm xúc, và thói quen sai lạc. Chúng ta bị xao lãng bởi những hiện tượng nhị nguyên và vì thế bị kẹt trong sự hỗn loạn bất tận của thế gian phàm tục. Trong
Hevajratantra (Kinh Xuất diệu) nói:
Chúng sanh đều là Phật trong tự tánh
Nhưng tự tánh đó bị che ám bởi nhiễm ô từ bên ngoài.
Khi nhiễm ô được tẩy sạch, bản thân chúng sanh chính là Phật. Nếu bạn đạt được sự giải thoát khỏi tâm bám chấp vào hiện tượng vô ngã như là có ngã và siêu việt nhận thức nhị nguyên qua sự tu tập tâm linh, thì toàn bộ vũ trụ trước bạn hòa nhập vào sự nhất như của đại an bình. Và đó là sự đạt được Phật quả, bản tánh tuyệt đối. Nếu bạn đạt được Phật quả, thì mọi hoạt động đều trở thành hành động Phật xuất hiện tự nhiên. Mọi sự xuất hiện và được thấy qua trí tuệ Phật toàn giác đúng thật như chúng đang hiện hữu, cũng như không phân biệt, giới hạn và nhị nguyên. Bạn thấy tất cả qua trí tuệ thấu suốt toàn khắp của Phật tánh, không qua tâm nhị nguyên dựa trên khái niệm.
Theo các
tantra của đạo Phật, để một người bình thường đạt đến sự nhận biết của bản tánh giác ngộ thì điều rất quan trọng là người đó phải nhận được trao truyền của năng lực hay ban phước của sự nhận biết (
rTog Pa’i Byin rLabs) từ một vị thầy đã giác ngộ. Sau đó, một dòng trao truyền như vậy đi qua nhiều giai đoạn và thời gian khác nhau như sự nối kết với sự nhận biết, bản tánh thực sự tỉnh giác và như phương tiện truyền bá giáo lý.
Tôi đang viết chủ đề này dựa căn bản trên sự giải thích của truyền thống
Ter của
Dodrupchen Rinpoche đệ tam, Ngài
Jigme Tenpa’i Nyima (1865 - 1926).
Suối nguồn chính của truyền thống Terma thuộc trường phái
Nyingma là Đức
Guru Padmasambhava. Ngài là một trong các vị tổ và là vị thánh vĩ đại nhất trong lịch sử đạo Phật. Vào thế kỷ tám, với lời mời của vua
Thrisong Detsen của Tây Tạng, Ngài từ Ấn Độ đến Tây Tạng và đáp ứng ba sứ mệnh chính. Thứ nhất, qua sự phô diễn quyền năng tâm linh, Ngài an định những thế lực phi nhân và con người đang cản trở việc đặt nền tảng Giáo pháp ở Tây Tạng. Thứ hai, Ngài đem Phật giáo nói chung và nhất là trao truyền giáo lý và năng lực ban phước
tantra của Ngài cho nhiều đệ tử người Tây Tạng và môn đồ của họ. Thứ ba, thông qua năng lực giác ngộ Ngài đã chôn giấu nhiều giáo lý và trao truyền đa dạng cũng như các pháp khí tôn giáo, cũng như
Ter vì lợi ích của những đệ tử trong tương lai.
Trong lúc trao truyền những giáo lý Mật tông cho các đệ tử đã giác ngộ của Ngài ở Tây Tạng,
Guru Padmasambhava đã chôn giấu (
sBas) nhiều giáo lý với sự ban phước từ dòng tâm thức giác ngộ của Ngài trong bản tánh tánh giác nội tại (Rig Pa) của tâm các đệ tử qua năng lực “
tâm truyền tâm” (
gTad rGya); nhờ đó vị tổ và đệ tử hợp nhất như một trong giáo lý và sự chứng ngộ. Ở đây, vị tổ đã chôn giấu giáo lý và ban phước, sự thành tựu mật truyền, như
Ter trong tánh thanh tịnh của tâm các đệ tử qua năng lực giác ngộ của Ngài, và Ngài đã lập nguyện rằng Ter sẽ được phát hiện vì lợi ích của chúng sanh khi đến thời điểm thích hợp. Nhờ năng lực của phương pháp này, được gọi là
tâm truyền tâm (trao truyền ủy thác bằng tâm), những phát hiện thực tế của giáo lý sẽ xảy ra. Trao truyền ủy thác qua tâm là tâm yếu thuộc truyền thống Ter của Đức
Guru Padmasambhava. Sau đó, trong những thế kỷ tiếp theo, khi đến thời điểm chúng sanh có thể được lợi ích nhờ một giáo lý đặc biệt, những vị tái sanh của các đệ tử đã giác ngộ của Đức
Guru Padmasambhava phát hiện những giáo lý này vì đã được vị tổ trao truyền và cất giấu trong họ từ những kiếp trước, thông qua nguyện lực giác ngộ của vị thầy và đệ tử và thiện nghiệp của chúng sanh. Có hàng ngàn hình ảnh, chữ viết biểu tượng, đầy đủ các bản văn, dược liệu và những pháp khí nghi lễ được Đức
Guru Padmasambhava chôn giấu và được phát hiện như những vật liệu
Ter (gTer rDzas); nhưng
Ter chủ yếu là giáo lý và sự ban phước trao truyền qua tâm các đệ tử.
SỰ TRAO TRUYỀN TER Sự trao truyền Ter được chuyển qua sáu loại hay sáu giai đoạn của dòng truyền (
brGyud Pa Drug). Trong sáu dòng truyền, có ba dòng là đồng nhất với dòng trao truyền Mật tông phổ biến trong kinh điển
Nyingma. Chúng là dòng trao truyền từ “
tâm giác ngộ đến tâm giác ngộ của chư Phật” (
rGyas Ba dGongs brGyud), dòng trao truyền chỉ thông qua “
các chỉ dạy giữa các bậc trì minh” (Rig
’Dzin brDa brGyud), và dòng trao truyền của “
sự truyền khẩu trong những chúng sanh bình thường” (
Gang Zag sNyan brGyud).
Ba dòng truyền kế tiếp là độc nhất của trao truyền Ter, và sự phát hiện
Ter được hoàn thành dựa trên ba dòng truyền này. Dòng truyền đầu tiên là “
sự trao truyền của nguyện quán đảnh” (
sMon Lam dBang bsKur) hay
tâm truyền tâm, nhờ đó qua năng lực giác ngộ tập trung,
Guru Padmasambhava trao truyền và cất giấu những thành tựu mật truyền và giáo lý trong phạm vi tánh giác nội tại, bản tánh giác ngộ của tâm các đệ tử. Đây là khía cạnh chính của sự trao truyền.
Dòng truyền thứ hai là “
trao truyền qua sự tiên tri đáng tin cậy” (
Lung bsTan bKa’ Babs), trong đó vị tổ gợi cảm hứng và ban những tiên tri cho đệ tử liên quan đến việc sau này họ sẽ trở thành một
Tertön. Điều này không chỉ là một tiên đoán về tương lai, mà hơn thế, bằng năng lực giác ngộ, Ngài làm cho sự việc tiên đoán đó xảy ra.
Thứ ba là “
sự giao phó đến các Ḍākinī” (mKha’ ‘Gro gTag rGya), trong đó vị tổ giao phó
Ter, Tertön (gTer sTon, người phát hiện Ter), những vị thầy, và những người đi theo của truyền thống cho sự bảo vệ của các
Ḍākinī và Hộ Pháp. Trong trường hợp của một Ter Đất, vị tổ giao phó những đồ vật, như các tráp nhỏ chứa những cuộn giấy màu vàng với các chữ viết biểu tượng cho
Ḍākinī và Hộ Pháp giữ gìn rồi trao chúng cho vị
Tertön khi thời điểm đến.
Do đó, mỗi giáo lý
Ter đều được truyền qua sáu loại trao truyền.
HAI PHẠM TRÙ CHÍNH CỦA TER Mặc dù các
Ter có thể chia thành mười tám phạm trù, v.v... nhưng có hai phạm trù chính yếu của
Ter [được phân loại] dựa trên cách phát hiện ra chúng. Đó là
Ter Đất (Sa gTer) và
Ter Tâm (dGongs gTer). Sự phát hiện
Ter Đất liên quan đến các vật thể thuộc đất như các chữ viết biểu tượng (
brDa Yig) viết trên một cuộn giấy được biết như là cuộn giấy màu vàng (
Shog Ser) v.v... Các vật thể này là để giúp đỡ phát hiện sự cất giấu hoặc để đánh thức ký ức về nơi cất giữ
Ter trong tánh giác ngộ của tâm vị
Tertön. Tuy nhiên, người ta thường quan niệm
Ter Tâm được trao truyền qua tâm, còn
Ter Đất là những gì mà các vị
Tertön phát hiện từ các vật thể thuộc đất như tảng đá, ao hồ, v.v...
Trong thực tế, các chữ viết biểu tượng chỉ là chiếc chìa khóa, không phải giáo lý
Ter thật sự, cũng không phải sự chứng ngộ được trao truyền, điều đó chỉ xảy ra chính trong tâm của vị
Tertön. TER ĐẤT Có những cách chôn giấu
Ter khác nhau, nhưng chủ yếu liên quan đến ba giai đoạn. Trước tiên,
Guru Padmasambhava trao truyền giáo lý mật tông và thành tựu của Ngài cho các đệ tử và cất giấu chúng trong bản tánh tuyệt đối của tâm đệ tử. Tâm bình thường thì thay đổi vì những khái niệm và cảm xúc, nhưng thật tánh thì bất biến và giáo lý được bảo tồn nguyên vẹn trong chính thật tánh ấy. Đó là nơi thực sự diễn ra việc chôn giấu Ter. Ngài
Drodrupchen viết:
Nơi tối thượng, kho tàng thiêng liêng ở đó trí tuệ ban phước của ngữ vajra được bảo tồn không suy hoại qua năng lực trao truyền ủy thác - tâm tạo ra bởi Guru Rinpoche (Padmasambhava), là lãnh vực của bản tánh bất biến của tâm vị Tertön. Thứ hai, cùng với vị phối ngẫu
Yeshe Tsogyal, Guru Padmasambhava đặt giáo lý thành biểu tượng hay chữ mật mã trong nhiều ngôn ngữ khác nhau, phần lớn được gọi là ngôn ngữ
Ḍākinī và viết trên giấy cuộn màu vàng hay trên những đồ vật khác nhau như hình ảnh và pháp khí nghi lễ. Vì nguyện lực trao truyền của
Guru Padmasambhava, chữ viết biểu tượng sẽ có năng lực đánh thức sự trao truyền khi vị Tertön đọc nó. Sau đó, vị
Tertön đặt những cuộn giấy màu vàng trong tráp (
gTer sGom) và chôn giấu tráp trong nơi cất giấu Ter (
gTer gNas), như trong tảng đá, núi, hồ, đền, hình tượng hoặc bầu trời qua năng lực thần bí của họ, và nó trở thành vô hình cho đến thời điểm được phát hiện.
Thứ ba,
Guru Padmasambhava truyền cảm hứng cho đệ tử là các
Tertön và ban ân phước tiên tri liên quan đến việc khi nào và ai sẽ trở thành một
Tertön. Đây không chỉ là một sự tiên đoán tương lai, mà là một ban phước làm cho sự việc tiên đoán được xảy ra vì năng lực chân lý của lời vị tổ.
Tương truyền sẽ có một trăm vị
Tertön chính và một ngàn vị
Tertön phụ. Khởi đầu với Ngài
Sangye Lama (thế kỷ mười một), rất nhiều vị
Tertön đã xuất hiện ở Tây Tạng và hàng ngàn bộ giáo lý cùng với vô số pháp khí tôn giáo đã được phát hiện như
Ter. Ngay cả đến ngày nay, từ đầu những năm 1980, những phát hiện về Ter đã được tiếp nối ở Tây Tạng. Những
Tertön là những vị tái sanh của các đệ tử Ngài
Guru Padmasambhava, và từ Ngài họ tiếp nhận sự trao truyền ủy thác tâm của giáo lý và đã đạt được những thành tựu cao. Trừ ra một vài ngoại lệ, hầu hết các vị
Tertön đều là những hành giả Mật tông sống cuộc sống có gia đình. Họ chuyển hóa cuộc sống hằng ngày của họ thành sự tu tập hợp nhất hỷ lạc và tánh Không không phân biệt và truyền bá những giáo lý họ đã phát hiện.
Một số vị đại
Tertön là
Nyang Nyima Ödzer (1124 - 1192), Guru Chöwang (1212 -1270), Ogyen Lingpa (1323 - ?), Rigdzin Gödem (1337 - 1408), Sangye Lingpa (1340 - 1396), Dorje Lingpa (1346 -1405), Ratna Lingpa (1403 - 1478), Pema Lingpa (1450 - ?), Rigdzin Jatsön Nyingpo (1585 - 1656), Mingling Terdag Lingpa (1646 - 1714), Rigdzin Jigme Lingpa (1729 - 1798) và Khyentse Wangpo (1820 - 1892). Phần lớn các vị
Tertön đều có vẻ như người bình thường trước khi họ phát hiện bất kỳ Ter nào. Họ không cần thiết xuất hiện như những học giả, thiền giả hoặc
Tulku. Tuy nhiên, nhờ vào những thành tựu tâm linh nội tại và sự trao truyền đã nhận từ những kiếp trước, họ đột nhiên bắt đầu phát hiện một cách thần bí các
Ter vào thời điểm thích hợp, không cần bất cứ sự tu tập hiển nhiên nào.
Vào lúc ban đầu, những người hoài nghi thường đưa ra nghi ngờ về sự phát hiện như thế từ những người không ai ngờ được. Trong một vài trường hợp, sự trực tiếp và trung thực tự nhiên của một
Tertön có thể xuất hiện trái với thông lệ hoặc ngay cả là bất lịch sự với những người chấp giữ nguyên tắc bảo thủ. Nhưng dần dần, nếu đó thật sự là những phát hiện
Ter, chúng sẽ được sự công nhận của những người có quyền năng tâm linh cao hơn và sự kính trọng của những người mà chúng mang lại lợi ích. Điều quan trọng là phải hiểu được bối cảnh văn hóa này, nếu không thì một vị đại
Tertön có thể bị nhầm lẫn như một kẻ lừa bịp. Ví dụ, thật không may khi một tác giả phương Tây gần đây đã chê bai một vị đại
Tertön của truyền thống
Nyingma bằng cách trích dẫn những lời chỉ trích vị
Tertön ấy từ một số người đương thời không đủ tư cách nói xấu Ngài và miêu tả những biểu hiện khiêm tốn và tự tin trong sự nhận biết của Ngài như là mâu thuẫn nhau, mặc dù đó là những tính cách tiêu biểu trong các tác phẩm của nhiều vị thánh Phật giáo.
Sau đây là một định nghĩa về tiến trình chung của việc phát hiện
Ter Đất; tuy nhiên, chắc chắn không phải là định nghĩa duy nhất, bởi vì những Ter đã được phát hiện bằng nhiều cách.
Trước tiên, vị
Tertön tiếp nhận hướng dẫn tiên tri (Kha Byang) một cách trực tiếp trong kiến thanh tịnh hoặc trong sự chỉ dạy từ
Guru Padmasambhava, Ḍākinī, hay Bổn tôn. Sau đó họ thực hiện những thực hành chuẩn bị của
Ter (gTer sGrub), thiền định, hay nghi thức được chỉ dạy trong tiên tri hướng dẫn.
Khi thời điểm đến, vị
Tertön đến nơi cất giấu, đi một mình hoặc với một số người đi theo đã tuyển chọn, như vị phối ngẫu, đệ tử chính hoặc chỉ là những người quan sát. Nhiều sự phát hiện
Ter xảy ra trong bí mật (
gSang gTer) và nhiều khi công khai (
Khrom gTer). Ở đó, trong lúc thực hiện nghi lễ cúng dường vật thực (
Tshogs), sự phát hiện xảy ra theo nhiều cách.
Ter có thể rơi từ nơi cất giấu xuống tay vị
Tertön tại phần chót của tia sáng cầu vồng, hoặc vị
Tertön leo lên một tảng đá, mà thường thì quá dốc đến mức khó có thể leo lên, rồi mở ra một cánh cửa trong tảng đá, và leo xuống với một tráp nhỏ; hoặc vị
Tertön biến mất rồi sau đó xuất hiện lại với
Ter; hoặc Ngài sử dụng một dụng cụ như cái đục để đục vào tảng đá, và sau khi khó nhọc đục sâu vào, Ngài lấy ra
Ter; hoặc vị
Tertön nhảy xuống một cái hồ và mang
Ter ra khỏi hồ. Đôi khi vị
Tertön phát hiện
Ter từ những hình ảnh, đền, điện hay từ bầu trời. Đôi lúc vị
Tertön phát hiện
Ter cất giấu ở nơi thật xa qua năng lực thiền quán của Ngài, không cần đi đến đó, vì có các vị hộ pháp mang
Ter đến cho Ngài.
Trong việc phát hiện
Ter cũng có những hình tượng, đồ vật tôn giáo, dụng cụ hành lễ, nhưng quan trọng nhất là những chữ biểu tượng được viết trên giấy cuộn màu vàng. Phần lớn giấy cuộn được niêm phong trong những tráp được làm bằng vật liệu quý, đá, gỗ, v.v...
Một lần nữa, bằng việc thực hành chuẩn bị nhiều hơn cho
Ter, tráp đựng Ter tự nhiên mở ra, và trong đó vị
Tertön phát hiện cuộn giấy màu vàng. Gọi là “
cuộn giấy màu vàng” vì phần lớn những cuộn giấy này có màu vàng hay vàng nhạt, nhưng trong thực tế chúng có thể có bất cứ màu sắc, độ dài hay kiểu dáng nào. Trên những cuộn giấy màu vàng này, vị
Tertön tìm thấy những chữ biểu tượng trong bất kỳ chữ viết và ngôn ngữ khác nhau của con người hay loài phi nhân, chẳng hạn như chữ viết của Ấn Độ, Tây Tạng hay xứ sở
Ḍākinī. Những chữ viết biểu tượng thuộc nhiều đặc tính khác nhau, và được phân loại thành ba nhóm:
Nhóm thứ nhất “
chỉ để nhìn thấy ” (
sNang Tsam), là một hay nhiều âm tiết nhưng không cần thiết là một chữ.
Nhóm thứ hai “
chỉ như một nền tảng” (
rTen Tsam), là một nhóm hay một ít nhóm từ, một câu hay vài câu liên quan đến giáo lý của bản văn, như đề cương tóm tắt của bản văn, một phần của bản văn, tiêu đề của bản văn, hoặc một dữ kiện nối kết đến sự cất giấu. Đôi lúc đó là một bài viết không liên quan đến chủ đề.
Nhóm thứ ba là “
bản văn đầy đủ” (
mThar Ch’ag), là một phát hiện toàn bộ bản văn.
Vị
Tertön nhìn thấy, thiền định, hay hợp nhất trí tuệ không che đậy, đó là sự tự hiện từ bản tánh quang minh bẩm sinh của Ngài, với những chữ viết biểu tượng và nhờ đó đánh thức năng lực trí tuệ ngữ
vajra của Đức
Guru Padmasambhava được cất giấu trong Ngài. Ngài giải mã những từ ngữ trong các chữ viết biểu tượng (
brDa bKrol) và phát hiện ý nghĩa,
Ter, từ chúng. Sự phát hiện Ter là sự xuất hiện của kho tàng Giáo Pháp của lãnh vực tối thượng (Tạng:
Ch’os dByings, Sanskrit:,
dharmadhātu) như năng lực của giác tánh nội tại (
Rig rTsal) hoặc sự xuất hiện của năng lực tánh giác nội tại như giáo lý. Nếu bạn không có sự nhận biết của giác tánh nội tại
Dzogpa Chenpo, vốn tỏa khắp trong lãnh vực tối thượng (pháp giới), bạn không thể phát hiện một Ter nào của Đức
Guru Padmasambhava, vốn được xuất phát từ sự trao truyền ủy thác tâm (
tâm truyền tâm).
Do vậy những chữ viết biểu tượng trở thành chìa khóa để đánh thức ký ức về giáo lý và sự thành tựu từ sự rộng mở của bản tánh nội tại trong tâm vị
Tertön. Tiếp theo, sau khi thực hiện nhiều thực hành chuẩn bị cho
Ter, khi vị
Tertön thấy những dấu hiệu của thời điểm thích hợp, Ngài sao chép lại giáo lý. Sau đó, ngài trao truyền giáo lý cho các đệ tử và giao phó chúng cho vị lĩnh hội chính về
Ter, được gọi là bậc trì thủ giáo lý (
Ch’os bDag). Những vị trì thủ giáo lý thường là người cũng đã tiếp nhận trao truyền giáo lý từ
Guru Padmasambhava và nhận trách nhiệm truyền bá giáo lý.
TER TÂM Những phương pháp cất giấu, trao truyền, và phát hiện
Ter Tâm cũng tương tự như
Ter Đất, ngoại trừ việc chúng không dựa vào bất cứ nguồn bên ngoài nào thuộc đất, chẳng hạn như những cuộn giấy màu vàng là chìa khóa để phát hiện.
Trong nhiều trường hợp của
Ter Tâm, việc nhìn thấy hay nghe những chữ biểu tượng hoặc âm thanh trong các thị kiến (
linh ảnh) là nguyên nhân phát hiện
Ter, nhưng thường thì sự phát hiện không dựa vào bất cứ nguồn nào bên ngoài, và không liên quan đến những đối tượng thuộc đất như phương tiện để phát hiện
Ter. Một vị
Tertön Tâm phát hiện
Ter bằng sự đánh thức trao truyền ủy thác tâm một cách tự phát từ sự rộng mở của giác tánh nội tại tâm Ngài, khi hoàn cảnh chín muồi và thời điểm đã đến.
Có một phạm trù thứ ba của sự phát hiện giáo lý được biết như là
Kiến Thanh Tịnh (Dag sNang). Giáo lý
Kiến Thanh Tịnh không phải là
Terma. Chúng chỉ là những giáo lý được chư Phật, Bổn tôn, và vị thầy ban dạy trong thị kiến (
linh ảnh) của hành giả. Về loại phát hiện này, người phát hiện không cần thiết là một người có nhận biết cao và đây không phải là
tâm truyền tâm. Tuy nhiên, có những trường hợp trong đó giáo lý
Ter được phát hiện hoặc đã định rõ như giáo lý của kiến thanh tịnh. Trong trường hợp này, đây thực sự là giáo lý
Ter. Trong tài liệu của
Nyingma có hàng ngàn bộ
Ter được hàng trăm vị
Tertön phát hiện, khởi đầu vào thế kỷ mười một và tiếp tục đến ngày nay. Phần lớn các bản văn liên quan đến những
sādhana (nghi quỹ), nghi thức hành lễ, bài nguyện, và nhiều sự thực hiện mật truyền khác nhau (
Las). Có một số lớn bản văn về triết học, thiền định, và kết quả của những thực hành đạo Phật nói chung và nhất là của truyền thống mật tông. Ngoài ra, có rất nhiều bản văn về y học, thiên văn học, lịch sử và tiểu sử.
Thật ngạc nhiên khi nhận ra phạm vi và tác động của kho tàng tâm linh được Đức
Guru Padmasambhava ban để cải thiện giá trị của cuộc sống tinh thần, xã hội và văn hóa người Tây Tạng và kết quả không ngưng nghỉ của truyền thống trong tiến trình của một thiên niên kỷ. Và thật là sửng sốt khi thấy rằng ngay cả nhiều người Tây Tạng vẫn chỉ có ít nhận thức về ý nghĩa của truyền thống này. Theo các sử gia Tây Tạng, Phật giáo hẳn đã không bao giờ có thể hình thành ở Tây Tạng nếu không nhờ có sự ban phước của Đức
Guru Padmasambhava. Ở Tây Tạng, khó có một ngọn núi, ao hồ, hoặc thung lũng quan trọng nào mà không được Ngài đích thân ban phước bằng việc viếng thăm, thiền định, phô diễn phép mầu và chôn giấu các
Ter ở những nơi đó. Thậm chí ngày nay vẫn còn nhìn thấy nhiều dấu vết cụ thể, chẳng hạn như những dấu chân, nhiều hình ảnh xuất hiện tự nhiên, hoặc các hang động [ngài đã] thiền định. Truyền thống Ter bao gồm một số chứng cứ nổi bật nhất của dấu ấn vĩ đại được lưu lại Tây Tạng vì lợi ích của thế gian thông qua các hoạt động giác ngộ của Đức
Guru Padmasambhava. Vào lúc rời khỏi Tây Tạng, Ngài diễn tả lòng từ và hứa với người Tây Tạng những lời sau đây:
Khi các ngươi đối mặt thời điểm xấu của thời đại đen tối,
Mỗi ngày và đêm Ta sẽ đến Tây Tạng.
Ta sẽ cưỡi trên những tia sáng mặt trời đến với các ngươi,
Và vào mỗi ngày thứ mười của trăng tròn
Ta sẽ đích thân đến cùng các ngươi.
~ Trích “HÀNH TRÌNH GIÁC NGỘ, Pháp thiền định Ngöndro: sự rèn luyện thiết yếu”, Tulku Thondup