Chương này là tóm tắt của một luận giảng về
Bài nguyện Vajra bảy dòng có tựa đề là
Padma Karpo (Hoa sen trắng) của Ngài
Mipham Namgyal (1862 - 1912), một học giả nổi tiếng của truyền thống
Nyingma thuộc Phật giáo Tây Tạng. Bản luận giảng nguyên thủy tiếng Tây Tạng của Ngài Mipham rất uyên thâm và khó hiểu, khó phiên dịch, và tôi đã tóm tắt những điểm căn bản trong bản văn vào chương này.
Bài nguyện Vajra bảy dòng là bài nguyện quan trọng và thiêng liêng nhất trong truyền thống
Nyingma. Bài nguyện ngắn này bao gồm các phần giáo lý bên ngoài, bên trong và sâu thẳm nhất của sự tu tập Phật giáo Mật tông. Nhờ thực hành
Bài nguyện Vajra bảy dòng theo bất kỳ một trong các phần tu tập này, hành giả sẽ đạt được kết quả cụ thể của phần tu tập đó.
Trong tóm tắt này có năm trình độ giải thích. Đó là: (1) ý nghĩa chung hay phổ thông; con đường của ý nghĩa ẩn giấu (
sBas Don), bao gồm ba trình độ kế tiếp; (2) ý nghĩa tùy theo con đường giải thoát (
Grol Lam); (3) ý nghĩa tùy theo giai đoạn hoàn thiện (
rDzog Rim); (4) ý nghĩa tùy theo Nyingthig của Dzogpa Chenpo: sự nhận biết trực tiếp của hiện diện tự nhiên (Lhun Grub Thod rGal); và (5) ý nghĩa tùy theo sự thành tựu của kết quả.
Trong số những trình độ ý nghĩa này, mỗi một hành giả sẽ tụng niệm bài nguyện vajra để học và thực hành theo trình độ thích hợp, đúng với khả năng họ.
Tôi đã soạn lại phần tóm tắt này với hy vọng có thể chỉ rõ rằng bài nguyện vắn tắt này bao gồm nhiều trình độ ý nghĩa và tu tập khác nhau, vì có nhiều người đi theo giáo lý
Nyingma đã quen thuộc với
Bài nguyện Vajra bảy dòng thường không nhận biết được ý nghĩa sâu xa hơn của nó. Nhưng để hiểủ được trọn vẹn ý nghĩa của bài nguyện, tôi khuyến khích người đọc nên đọc bản văn nguyên thủy của Ngài Mipham Rinpoche.
Ở Tây Tạng, người theo
Nyingma tụng niệm
Bài nguyện Vajra bảy dòng hướng đến
Guru Rinpoche ba lần trước khi tụng các bài nguyện khác, hoặc thiền định hay thực hiện bất cứ nghi lễ nào. Nhiều người sùng đạo lặp lại bài nguyện hàng trăm lần, tụng niệm suốt thời gian lúc thức của họ, dùng bài nguyện như cầu nguyện chính, như hơi thở, cuộc sống và thiền định.
CẤU TRÚC CỦA BẢN VĂN Vì cấu trúc phức tạp của bản văn, một số tiêu đề, tiêu đề phụ, chữ nghiêng và trong ngoặc đã được áp dụng; do đó, một ghi chú giải thích có thể là lợi ích cho người đọc.
Bản luận giảng của Ngài
Mipham phân chia mỗi trình độ giải thích
Bài nguyện Vajra bảy dòng thành một lời mở đầu, cách phát âm chủng tử tự, đối tượng của bài nguyện, sự cầu nguyện,
mantra cầu thỉnh ban phước (chỉ dành cho trình độ giải thích ban đầu), và nội dung của bài nguyện.
Dựa theo sự giải thích trong luận giảng của Ngài
Mipham cho mỗi trình độ, tôi đã rút ra một ý nghĩa gốc cho Bài nguyện Vajra bảy dòng, và người đọc sẽ thấy rằng với mỗi trình độ giải thích, ý nghĩa gốc được đưa ra trước tiên, tiếp theo là luận giảng của Ngài
Mipham (với các phân chia phụ).
Về định dạng, những chữ in nghiêng được sử dụng trong ba trường hợp. Trước hết, trong toàn bộ phần chính của bản văn, chữ in nghiêng thỉnh thoảng được dùng cho những chữ Tây Tạng không quen thuộc (được viết theo dạng phát âm), theo sau là một chữ tiếng Anh tương đương, hoặc đôi lúc là tiếng Sanskrit tương đương (được chỉ rõ bằng từ viết tắt Skt.) trong ngoặc đơn. Thứ hai, chữ tiếng Anh in nghiêng xuất hiện trong luận giảng để chỉ rằng chúng là những từ được dịch từ chính
Bài nguyện Vajra bảy dòng. Khi đọc luận giảng, độc giả được khuyến khích tham khảo lại phần nghĩa gốc để hiểu những từ được in nghiêng bao hàm ý nghĩa gốc đến mức độ nào. Thứ ba, bắt đầu với trình độ giải thích ý nghĩa ẩn giấu (thứ hai) trở đi, ý nghĩa mật truyền trong phần ý nghĩa gốc được đi kèm bởi những cụm từ tương ứng của
Bài nguyện Vajra bảy dòng, được in nghiêng trong ngoặc ở dạng phiên âm chữ Tây Tạng.
Suốt bản văn, những dấu ngoặc vuông đôi khi được dùng để chỉ những chữ được thêm vào để giúp ý nghĩa được rõ hơn. Cuối cùng để giảm tối thiểu số lượng các chú thích, những thuật ngữ Tây Tạng then chốt được đặt trong ngoặc đơn ở dạng chuyển tự.
Có những khác biệt trong cách phát âm bằng tiếng Tây Tạng ở hai chỗ của
Bài nguyện Vajra bảy dòng. Với chữ cuối của dòng 6, tôi thường dùng kyee (Kyis) theo luận giảng của Ngài
Mipham, trong khi một số bản văn khác dùng chữ kyi (Kyi). Với chữ thứ ba của dòng thứ bảy, tôi dùng chữ lab (brLab) như trong bản văn của Longchen Nyingthig, vì là bản dịch thường được tụng niệm, mặc dù Ngài
Mipham và một số vị khác dùng chữ lob (rLobs).
LỊCH SỬ CỦA BÀI NGUYỆN VAJRA BẢY DÒNG Người ta nói rằng những dòng này là bài nguyện cầu thỉnh
Guru Rinpoche (Padmasambhava) đến tập hội của bữa tiệc cúng dường bởi
Dorje Khandroma (Sanskrit:
Vajra Ḍākinī).
Có lần, những vị thầy ngoại đạo uyên bác về ngôn ngữ và lý luận đã tìm đến tu viện
Nālandā và phỉ báng Giáo Pháp. Những học giả đạo Phật không đủ sức bác bỏ họ. Sau đó, phần lớn các vị học giả đều có cùng một giấc mộng. Trong mộng,
Ḍākinī Zhiwa Chog (An bình Siêu phàm) tiên tri như sau:
“Các người không thể đánh bại những kẻ ngoại đạo. Nếu không mời thỉnh đến đây người anh trai của Ta,
Dorje Thöthreng Tsal (Năng lực Tràng hoa Sọ người
Vajra, Guru Rinpoche), sống tại Hắc Mộ địa, thì Giáo Pháp có thể bị hủy diệt.”
“Làm sao chúng tôi có thể mời được Ngài, khi chỗ đó quá khó đến?” Những học giả hỏi.
Vị Khandroma trả lời: “Hãy bày một lễ cúng dường lớn trên mái nhà của tu viện, với âm nhạc và trầm hương, và tụng niệm bài nguyện vajra cùng một giọng.” Và bà ban cho họ
Bài nguyện Vajra bảy dòng.
Những học giả cầu nguyện theo đó, và trong chốc lát
Guru Rinpoche từ bầu trời hiện đến một cách kỳ diệu. Ngài chủ trì các học giả đạo Phật đánh bại những thầy dị giáo bằng những lập luận trí tuệ và trích dẫn từ kinh điển. Khi Ngài bị đe dọa bởi năng lực huyền thuật của những kẻ dị giáo, Ngài mở tráp mà vị Ḍākinī Mặt Sư Tử đã cho, và Ngài tìm thấy trong đó
mantra “mười bốn chữ”. Nhờ tụng niẹâm
mantra, Ngài loại trừ kẻ xấu trong những người dị giáo với một trận mưa sấm chớp. Người ta nói rằng bài nguyện này có nguồn gốc từ sự kiện đó.
Sau này, khi
Guru Rinpoche đến Tây Tạng vào thế kỷ tám, Ngài ban nó cho nhà vua và các thần dân. Với ý định dành cho những đệ tử có khả năng tu tập trong tương lai, Ngài chôn giấu bài nguyện này trong nhiều
Ter. Sau này,
Bài nguyện Vajra bảy dòngđược phát hiện nhiều lần trong hầu hết những Ter của một trăm vị đại Tertön trong mười thế kỷ qua của dòng truyền
Nyingma, như trọng tâm của các bài nguyện, giáo lý, và thiền định.
Ý NGHĨA CHUNG NGHĨA GỐC HŪṂ - cầu khẩn tâm của
Guru Rinpoche.
1. Ở phía tây bắc xứ
Oḍḍiyāṇa. 2. Sinh trên nhụy hoa sen
3. Được phú cho sự thành tựu kỳ diệu nhất;
4. Lừng danh là Đức Liên Hoa Sanh (
Padmasambhava);
5. Nhiễu quanh bởi quyến thuộc nhiều Khadro
6. Đi theo Ngài con thực hành:
7. Xin Ngài đến đây ban phước.
Vị Thầy (GURU)
Padmasambhava (PEMA), xin ban (HŪṂ) thành tựu (SIDDHI) [trên chúng con].
LUẬN GIẢNG DẪN NHẬP Đây là trình độ thực hành
Bài nguyện Vajra bảy dòng liên quan đến cách
Guru Rinpoche xuất hiện trong cõi thế gian này như một thân hóa hiện (Sanskrit:
Nirmāṇakāya).
Trong thực tế,
Guru Rinpoche không cách biệt với
Samantabhadra (Toàn thiện Phổ quát), Ngài đã giải thoát từ ban sơ như
Dharmakāya (Pháp Thân) tự hiện (trạng thái tối thượng). Không rời khỏi lãnh vực của
Dharmakāya, Ngài thành tựu tự nhiên trong
Sambhogakāya (Báo Thân - thân hoan hỷ trong tướng thanh tịnh), có năm phẩm tánh tuyệt đối. Ngài cũng là hiện thân của sự tự hiện trong nhiều phô diễn khác nhau của
Nirmāṇakāya (Hóa Thân - thân hóa hiện trong tướng bất tịnh), sự tự phản chiếu của lòng bi. Đây là cách thực tế mà
Guru Rinpoche an trụ và xuất hiện. Đó là sự phô diễn chư Phật, và chỉ riêng các ngài mới có thể nhận thức tất cả mọi khía cạnh sự phô diễn của
Guru Rinpoche.
Khoảng tám (hay mười hai) năm sau khi Đức Phật
Thích-ca Mâu-ni nhập Niết-bàn,
Guru Rinpoche xuất hiện trên một hoa sen trong hồ
Dhanakosha của xứ
Oḍḍiyāṇa cho những chúng sanh bình thường có thiện nghiệp trên thế gian này. Ngài giữ theo nhiều giới luật mật tông khác nhau và đạt được rất nhiều thành tựu như thân ánh sáng của đại chuyển di (
’Ja’ Lus ’Pho Ba Ch’en Po). Ngài cứu giúp những người sùng mộ ở Ấn Độ,
Oḍḍiyāṇa và Tây Tạng qua vô số hóa thân, như tám tướng hóa thân của
Guru Rinpoche (
Guru mTshan brGyad).
Trình độ giải thích này là cách mà chúng ta, những đệ tử bình thường, cầu nguyện đến
Guru Rinpoche, một đối tượng phi thường của lòng sùng kính.
CÁCH ĐỌC CỦA CHỦNG TỬ TỰ Bài nguyện bắt đầu với sự cầu khẩn tâm giác ngộ của
Guru Rinpoche nhờ phát âm chữ HŪṂ, chủng tử tự tâm của tất cả chư Phật.
ĐỐI TƯỢNG CỦA BÀI NGUYỆN Dòng 1: Nơi miền tây của châu lục
Jambu, tại hướng tây bắc xứ
Oḍḍiyāṇa, xứ sở của các
Khadro (Ḍāka và Ḍākinī) trong hồ
Dhanakosha, tràn đầy nước của tám phẩm tánh thanh tịnh.
Dòng 2: Trên nhánh được trang hoàng bằng nhụy, lá và những cánh của một hoa sen,
Guru Rinpoche được sinh ra.
Tất cả phẩm tánh và ân phước của ba bí mật (thân, khẩu và ý) của tất cả chư Phật cùng đến trong hình tướng của chữ HRĪḤ, và chữ này tan hòa vào tâm đức Phật
A-di-đà. Từ tâm Ngài, ánh sáng ngũ sắc tỏa ra và đi xuống nhụy hoa sen. Ánh sáng chuyển thành thân tướng của
Guru Rinpoche, và Ngài thọ sanh trong cách Liên Hoa Sanh [sinh ra kỳ diệu].
Dòng 3: Ngài thành tựu tự nhiên hai phần lợi ích (tự lợi và lợi tha) và phô bày thân tướng kỳ diệu, như tám hóa thân của
Guru. Ngài không chỉ đạt thành tựu thông thường mà còn đạt được thành tựu phi thường của trạng thái
Vajradhara (Kim Cương Trì).
Dòng 4: Danh hiệu Ngài lừng lẫy là Liên Hoa Sanh
(Padmasambhava). Dòng 5: Và Ngài được vây quanh bởi các quyến thuộc
Khadro nhiều bậc (
Ḍāka và Ḍākinī).
CẦU NGUYỆN Dòng 6: Hành giả nên cầu nguyện với ba loại niềm tin, hãy nghĩ: “Ôi, Đấng Bảo hộ, con sẽ đi theo Ngài, và sẽ thực hành một cách phù hợp.”
Dòng 7: “Để bảo vệ chúng sanh như chính con, đang chìm đắm trong đại dương của ba đau khổ, Ngài, bậc toàn giác, quyền năng,
xin hãy đến nơi đây để
ban phước cho thân, khẩu và ý của con với thân, khẩu và ý của Ngài, như sắt được biến thành vàng.”
MANTRA CẦU KHẨN BAN PHƯỚCGURU có nghĩa là vị thầy hay sự hướng dẫn tâm linh, người với phẩm tánh xuất sắc phong phú; không ai siêu vượt hơn.
PADMA là phần đầu danh hiệu của
Guru Rinpoche.
SIDDHI là những gì chúng ta muốn thành tựu - thông thường và phi thường.
HŪṂ có nghĩa là sự khẩn cầu ban thành tựu.
Do vậy, [cả câu có nghĩa là:]
O Guru Padma, xin ban thành tựu. NỘI DUNG CỦA BÀI NGUYỆN ĐỐI TƯỢNG CỦA BÀI NGUYỆN Dòng 1. Nơi sinh ra
Dòng 2. Cách sinh ra.
Dòng 3. Sự vĩ đại của phẩm tánh Ngài.
Dòng 4. Danh hiệu riêng của
Guru Rinpoche.
Dòng 5. Quyến thuộc.
CẦU NGUYỆN Dòng 6. Cầu nguyện với lòng khao khát đạt được sự bất khả phân với
Guru Rinpoche hoặc phát triển tín tâm nơi Ngài.
Dòng 7. Sự thành tựu bất khả phân với
Guru Rinpoche dựa vào chính chúng ta.
MANTRA ĐỂ CẦU KHẨN BAN PHƯỚCCON ĐƯỜNG CỦA Ý NGHĨA ẨN GIẤU CON ĐƯỜNG CỦA GIẢI THOÁT Ý nghĩa gốc HŪṂ - đánh thức trí tuệ tự hiện, bản tánh tối thượng.
1. Tâm (orgyen yul) là sự giải thoát (tsam) [từ những cực đoan] của luân hồi (nub) và Niết-bàn (chang).
2. Đó là sự nhận biết của hợp nhất (dongpo) của lãnh vực tối thượng thanh tịnh bổn nguyên (pema) và quang minh, giác tánh vajra nội tại (kesar) và (la) ...
3. Đó là Đại Viên Mãn, sự kỳ diệu (yatsen). Nó là sự đạt được (nye) thành tựu cao nhất (chogki ngödrub), trạng thái của Vajradhara.
4. Đây là trí tuệ của bản tánh tuyệt đối, lừng danh như (zhesu trag) nền tảng tối thượng (jungne) của chư Phật (pema).
5. Trí tuệ này với (kor) vô số năng lực hóa thân (mangpo) của nó lưu xuất (dro) trong lãnh vực tối thượng (kha) như những thuộc tính (khortu).
6. Con phát triển tự tin vững chắc (dag drub kyee) vào bản tánh của trí tuệ nguyên sơ bất nhị (khye kyi je su).
7. Để (chir) tịnh hóa mọi bám luyến vào hình tướng như trí tuệ nguyên sơ (chinkyee lob), cầu mong con nhận ra (shegsu sol) bản tánh tối thượng.
Trí tuệ nguyên sơ là tánh không trong tinh túy của nó (
Dharmakāya) (
GURU), trong sáng trong bản tánh (
Sambhogakāya) (
PADMA), và tỏa khắp trong lòng bi [năng lực] (
Nirmāṇakāya) (
SIDDHI) với năm bậc trí tuệ (HŪṂ).
LUẬN GIẢNG SỰ PHÁT ÂM CHỦNG TỬ TỰ Bài nguyện bắt đầu với sự phát âm chủng tử tự tâm, HŪṂ, làm đánh thức trí tuệ nguyên sơ tự hiện, thật tánh của sinh tử và Niết-bàn.
ĐỐI TƯỢNG CỦA BÀI NGUYỆN Dòng 1. Xứ sở
Oḍḍiyāṇa là một suối nguồn đặc biệt của mật tông. Về mặt con đường thực tế, tâm của chính hành giả là suối nguồn đặc biệt của mật tông, nên đó là ý nghĩa của
Oḍḍiyāṇa.
Tâm hay bản tánh tối thượng của tâm là sự giải thoát khỏi bị chìm đắm trong sinh tử và vươn tới Niết-bàn, vì nó chẳng chấp trụ hay thiên vị đến hai cực đoan- sinh tử và niết bàn.
Dòng 2. Pema, hoa sen, biểu tượng lãnh vực tối thượng (
Dharmadhātu- Pháp Giới), bản tánh được nhận ra. Nó không trụ ở bất cứ đâu và thanh tịnh từ khởi thủy, giống như hoa sen không bị ô nhiễm bởi bất kỳ bất tịnh nào. “
Kesar” nhụy hoa, biểu thị tánh quang minh, giác tánh
vajra nội tại (
Rig Pa’i rDo rJe), đó là phương tiện của bản tánh nhận biết. Sự thành tựu tự nhiên, tánh giác nội tại tự tỏa sáng, trí tuệ bổn nguyên, được nở hoa với sự trong sáng; do vậy, nó tương đồng với nhụy của một hoa sen.
Khi cuống hoa (
Dongpo) giữ nhụy và những cánh của một hoa sen với nhau, trí tuệ bổn nguyên đại cực lạc, tự hiện an trụ như sự hợp nhất của lãnh vực tối thượng (
dBying) và trí tuệ bổn nguyên (
Ye Shes), và nó là bản tánh tối thượng của tâm, hoặc tánh quang minh sẵn có của tâm.
Dòng 3. Tâm là sự sinh ra tự nhiên, tánh quang minh Đại Viên Mãn (
Dzogpa Chenpo), trí tuệ bổn nguyên của bản tánh tuyệt đối, ý nghĩa của quán đảnh thứ tư, đó là sự kỳ diệu. Nó hiện diện tự nhiên như nền tảng của tâm tất cả chư Phật, sự đạt được thành tựu tối thượng, trạng thái của
Vajradhara. Dòng 4. Tâm là nền tảng của tất cả chư Phật ba đời, các bậc đã nở rộ như hoa sen, bản tánh tối thượng, nên được lừng danh như nền tảng của
Pema, chư Phật. Đây là sự nhận biết của
Pema Jungne như vị Phật tuyệt đối.
Dòng 5. Trong trí tuệ bổn nguyên đó có những phẩm tánh phi thường của sự thành tựu mà nếu phân chia thành những đa dạng của chúng, là bao gồm năm loại trí tuệ bổn nguyên (
Ye Shes lNga). Do vậy, trong không gian không che đậy của lãnh vực tối thượng, vô số năng lực hóa thân của trí tuệ bổn nguyên của tánh giác nội tại được lưu xuất như những thuộc tính bất tận của nó.
CẦU NGUYỆNDòng 6. Để nhận ra bản tánh của trí tuệ bổn nguyên bất nhị (
Ye Shes) và để hoàn thiện nó qua thiền định với tự tin bất biến, đó là đại trí (Shes Rab), được diễn tả là “Con sẽ theo sau Ngài, và con sẽ thực hành.”
Dòng 7. Nếu hành giả đã có kinh nghiệm và xác quyết trong bản tánh tối thượng này (
gNas Lugs) bằng sự nhận ra cái thấy (
lTa Ba) và hoàn thiện nhận biết đó qua thiền định, hành giả sẽ chuyển hóa mọi bám luyến vào hình tướng bất tịnh thành tinh chất của trí tuệ bổn nguyên (
Ye Shes).
Hoặc, nếu hành giả không thể đạt được trí tuệ bổn nguyên, thì để tiếp nhận được sự ban phước của con đường trong chính tâm thức mình, hành giả mong ước như sau: “Cầu mong con nhận ra bản tánh tối thượng (
Ch’os Nyid) bằng việc tan hòa tính nhị nguyên chủ thể-đối tượng vào nó, như sóng của nước hòa vào nước, qua năng lực ban phước của các hướng dẫn của
Lama và qua sự học tập và quán chiếu.”
MANTRA ĐỂ CẦU THỈNH BAN PHƯỚC Trí tuệ bổn nguyên là bản chất rỗng không (
Ngo Bo sTong Pa), Pháp Thân, và vì nó không ở dưới bất cứ đặc tính có thể nhận thức nào, nó là bậc cao nhất, GURU.
Bản tánh của trí tuệ bổn nguyên là quang minh (
Rang bZhin gSal Ba). Nó là sự thành tựu Báo Thân tự nhiên, với năng lực phô diễn bất tận. Song, nó không tách rời khỏi lãnh vực tối thượng. Nên nó là PADMA, hoa sen, có nghĩa không bị nhiễm ô bởi các đặc tính tương đối.
Sự bất khả phân của tinh túy và bản tánh đó là lòng bi phổ quát, xuất hiện trong sự phô diễn (
Rol Pa) của luân hồi và niết bàn, đáp ứng mong ước của tất cả chúng sanh bất tận đó là SIDDHI hay sự thành tựu.
HŪṂ biểu thị trí tuệ bổn nguyên tự hiện, chủng tử tự của tâm, người sở hữu năm trí tuệ bổn nguyên.
CON ĐƯỜNG CỦA PHƯƠNG TIỆN THIỆN XẢO (THABS LAM) THEO GIAI ĐOẠN HOÀN THIỆN Nghĩa gốc HŪṂ - đánh thức trí tuệ bẩm sinh tự hiện.
1. Tại trung tâm (tsam) của kinh mạch roma (nub) và kyangma (chang) của thân vajra (ogyen yul),
2. Tại (la) luân xa tám cánh nơi ngực (pema), trong “tinh chất” (Thig Le) (kesar), trong uma, kinh mạch trung ương (dongpo),
3. An trụ (nye) sự kỳ diệu (yatsen), tâm trí tuệ bổn nguyên không nhiễm ô, đại cực lạc - bản tánh quang minh bất động, sự đạt được thành tựu cao nhất (chogki ngödrub).
4. Nó là sự lừng danh (zheshu trag) như hiện diện tự nhiên, Padmasambhava tuyệt đối (pema jungne).
5 Tinh chất trí tuệ bổn nguyên này (kor) với nhiều (mangpo) loại năng lượng (rLung) và tinh chất (Thig Le), đó là sự hiện thân trong lãnh vực rỗng không (khadro) của kinh mạch như tính linh hoạt, nhiệt tình (khortu).
6. Theo bản tánh thiện xảo của thân vajra (khyekyi jesu), con sẽ rèn luyện trong trí tuệ bổn nguyên (dag drub kyee) qua các giai đoạn của rèn luyện mật tông.
7. Để (chir) chuyển hóa mọi hiện hữu vào lãnh vực của đại cực lạc (chinkyee lab), cầu mong con đạt được đại cực lạc của thân vajra (kim cương thân) (shegsu sol).
Trí tuệ bổn nguyên cao nhất (GURU) và sự không nhiễm ô, đại cực lạc tự hiện (PADMA) đem lại trí tuệ bổn nguyên vĩ đại, tối thượng (SIDDHI), Tâm linh thiêng của chư Phật (HŪṂ).
LUẬN GIẢNG GIỚI THIỆU Với những người không thể nhận ra trí tuệ bổn nguyên tuyệt đối (
Don Gyi Ye Shes) qua sự tu tập đã giải thích trong con đường giải thoát, vẫn có thể đạt được qua sự tu tập phi thường nhất của con đường phương tiện thiện xảo.
SỰ PHÁT ÂM CHỦNG TỬ TỰ Chữ HŪṂ biểu thị sự tỉnh thức của trí tuệ bổn nguyên bẩm sinh, tự hiện.
ĐỐI TƯỢNG CỦA BÀI NGUYỆN Dòng 1. Xứ sở Oḍḍiyāṇa biểu thị thân
vajra, nền tảng phi thường của
tantra. Trong thân
vajra đó, bên phải là kinh mạch
roma màu đỏ (
Sanskrit: rasana) trong đó là năng lượng mặt trời (
Nyi Ma’i rLung) chuyển động vòng quanh, làm giảm tinh chất (
Tạng: Thig Le, Sanskrit: Bindu). Ở bên trái là kinh mạch Kyangma màu trắng (Sanskrit: lalanā) trong đó là năng lượng mặt trăng (
Zla Ba’i rLung) chuyển động vòng quanh, làm gia tăng, tẩy tịnh, làm mát và an định tinh chất.
Giữa các kinh mạch này, tại trung tâm [nơi năng lượng trí tuệ bổn nguyên trôi chảy]
Dòng 2. Hoa sen (
pema) biểu thị Luân Xa Pháp Tám Cánh tại ngực (
sNying Ka Ch’os Kyi ‘Khor Lo). Nhụy hoa (
kesar) biểu thị tinh chất (hay tinh dịch), tinh chất cần cho sự sống của năm yếu tố (
ngũ đại). Cuống hoa (
dongpo) biểu thị
uma (Sanskrit:
avadhūti) hay kinh mạch trung ương trong đó là năng lượng trí tuệ bổn nguyên (
Ye ShesKyi rLung) trôi chảy vòng quanh.
Dòng 3. Bên trong chu trình của kinh mạch, năng lượng, và tinh chất đó - tinh chất sinh lực phi thường (
Dvangs Ma) của thân
vajra - và sự khởi nguyên cùng lúc với chúng từ khởi thủy, giống như long não và mùi của long não, trụ trong bản chất quang minh (
’od gSal Ba’i Thig Le), đó là đại cực lạc không nhiễm ô, trí tuệ bổn nguyên tự hiện.
Thế nên nó rất kỳ diệu. Bản chất quang minh này là sự hợp nhất bất khả phân của cực lạc và tánh không siêu vượt tư duy và mô tả, và nó là sự thành tựu tự nhiên của siddhi cao nhất,
vajradhara (Kim Cương Trì).
Dòng 4. Trí tuệ bổn nguyên của sự nhận biết rằng bản chất quang minh đó lừng danh như sự tuyệt đối,
Pema Jungne, tự hiện (
Padmasambhava).
Dòng 5. Bản chất quang minh của trí tuệ bổn nguyên đó,
Padmasambhava, với nhiều tinh chất và năng lượng (rLung) như năng lực hiện thân (
rTsal) đại tinh chất của tự thân trí tuệ bổn nguyên. Đó là sự hiện thân trong không gian trống rỗng của kinh mạch trung ương và các kinh mạch nhỏ hơn như sinh khí của nó. Nếu hành giả áp dụng sự rèn luyện về phương tiện thiện xảo, thì chu trình của thân
vajra xuất hiện như trí tuệ bổn nguyên đại cực lạc của bản chất quang minh.
CẦU NGUYỆN Dòng 6. “Con sẽ theo sau Ngài, và con sẽ thực hành” trước hết biểu thị rằng đó là rèn luyện trên hiểu biết và hoàn thiện bản tánh của thân
vajra; và thứ hai; trí tuệ bổn nguyên đại cực lạc qua sự rèn luyện thâm sâu với các đặc tính (
mTshan bChas Kyi rNal ‘Byor) của giai đoạn hoàn thiện (
rDzogs Rim), bao gồm thực hành về
yoga nội hỏa (
gTum Mo), sự rèn luyện qua sự hỗ trợ của vị phối ngẫu
vajra bên trong hay bên ngoài. Các rèn luyện này sẽ đem lại kết quả cho phép năng lượng nghiệp và tâm thức đi vào kinh mạch trung tâm, và nhận ra trạng thái của thân huyễn, thể nhập tánh sáng, và
yoga giấc mộng, vì sức lực của luyện tập thân thể, rèn luyện của năng lượng, và tập trung tâm thức về tinh chất vi tế (
Phra Mo’i Thig Le).
Dòng 7. Qua sự rèn luyện của phương tiện thiện xảo, hành giả chuyển hóa mọi hiện hữu vào sự đạt được của bản tánh đại cực lạc thuần tịnh của thân
vajra, và chuyển chúng thành
maṇḍala của thân, khẩu và ý của chư Phật.
Để đạt được đại cực lạc của kim cương thân, tất cả khuynh hướng thói quen của năng lượng nghiệp thay đổi - nguyên nhân của hình tướng sinh tử, tùy thuộc tâm nhiễm ô do tư duy với những đặc tính - được tan hòa vào kinh mạch trung ương của trí tuệ bổn nguyên bất động, và được buộc vào tinh chất đại bất động, lãnh vực tối thượng thật sự của nền tảng. Do vậy, Đến (đạt được) tới
Dharmakāya, lãnh vực tối thượng của nền tảng.
MANTRA CẦU THỈNH BAN PHƯỚC Trí tuệ bổn nguyên của con đường, đó là sự đạt được qua con đường rèn luyện phi thường, là cao nhất; vì thế là GURU (vị thầy).
Mọi bất tịnh, như năm cảm xúc phiền não, xuất hiện như sự hỗ trợ của đại cực lạc thuần tịnh và sự tự giải thoát; vì thế là PADMA (hoa sen).
Như kết quả cuối cùng, trí tuệ bổn nguyên vĩ đại sẽ nhanh chóng đạt được; vì thế là SIDDHI (thành tựu).
Trong sự sửng sốt vào lúc xuất hiện của trí tuệ bổn nguyên qua rèn luyện của con đường phương tiện thiện xảo xảy đến từ chủng tử tự Tâm của chư Phật - HŪṂ.
THEO NYINGTHIG CỦA DZOGPA CHENPO: SỰ NHẬN BIẾT TRỰC TIẾP CỦA HIỆN DIỆN TỰ NHIÊN
Ý nghĩa gốc HŪṂ - cầu khẩn trí tuệ tự hiện đem lại sự nhận biết của khuôn mặt trí tuệ bổn nguyên tối thượng.
1. Ánh sáng của tâm (ogyen yul) và lãnh vực tối thượng bên trong (nub) của nó (kyi), lãnh vực tối thượng bên ngoài (chang), và ánh sáng nước của mắt (tsam), và
2. Ánh sáng của lãnh vực thanh tịnh tối thượng và ánh sáng của rỗng không thig-le (pema) với chuỗi vajra - năng lực của giác tánh nội tại - (kesar) được hiện diện cho chúng ta. Nhờ vào (la) giác tánh nội tại ổn định vững chắc trên chúng qua thiền định (dongpo).
3. Hành giả đạt được (nye) sự kỳ diệu (yatsen) ba cái thấy trước tiên (sNang Ba) và đạt được siddi cao nhất (chogki ngodrup), cái thấy thứ tư.
4. Sự đạt được này lừng danh (zhesu trag) như sự đạt được của Phật tánh bổn nguyên (pema jungne).
5. Sau đó ánh sáng của trí tuệ tự hiện chiếu ra (kor) nhiều (mangpo) tia sáng và thig-les như năng lực biểu hiện của nó (rTsal) (khortu) chuyển động vòng quanh trong không gian (khadro).
6. Con thiền định (dag drub kyee) về cái thấy tự nhiên của thanh tịnh bổn nguyên (khye kyi jetsu).
7. Để (chir) đạt được thân
vajra cầu vồng của đại chuyển di (shegsu sol), cầu mong con tịnh hóa mọi hiện tượng vào sự rộng mở của trí tuệ bổn nguyên (chinkyee lab).
Sự vĩ đại nhất này (GURU), không nhiễm ô (PADMA), và thành tựu tối thượng (SIDDHI) là kỳ diệu (HŪṂ).
LUẬN GIẢNG
GIỚI THIỆU Trí tuệ bổn nguyên tự hiện, tự nhiên an trụ từ ban sơ như bản tánh tối thượng (
Ch’os Nyid) của tâm. Tuy nhiên, vì sự tác động của nghiệp và cảm xúc phiền não, bản tánh tối thượng bị che phủ và khuôn mặt của nó (
Rang Zhal) không được quán sát.
ĐỐI TƯỢNG CỦA BÀI NGUYỆN HŪṂ biểu thị tinh túy của thành tựu tự nhiên
thögal, trí tuệ bổn nguyên tự hiện.
Thögal đem lại cái thấy của khuôn mặt thật (bản lai diện mục) của trí tuệ bổn nguyên tự hiện từ trạng thái thành tựu tự nhiên thể nhập quang minh, ngay cả cho người bình thường chúng ta, nếu đi theo hướng dẫn của thừa cao nhất này.
Dòng 1. Ogyen yul biểu thị ánh sáng của tâm (
Tsita Sha Yi sGron Ma). Thân trẻ trung trong một bình (tịnh bình thân trẻ trung) (
gZhon Nu Bum sKu),
thig-le chiếu sáng rực rỡ của trí tuệ bổn nguyên, an trụ vô hình (
nub) trong không trung của kim cương thân, lãnh vực nền tảng nội tại (
Nang Gi dByings).
Chang là lãnh vực nền tảng bên ngoài, không gian xuất hiện trong sáng, bầu trời không mây.
Tsham, kinh mạch của hai lãnh vực bên ngoài và bên trong, là nước ánh sáng của mắt (
rGyang Zhag Ch’u Yi sGron Ma).
Dòng 2. Qua nước ánh sáng của mắt, trong lãnh vực nền tảng bên ngoài, xuất hiện bầu trời thanh tịnh - xanh dương, trong sạch, với mạng lưới cầu vồng đẹp đẽ bởi
thig-le tuần hoàn, giống như gương. Tất cả điều này là ánh sáng của lãnh vực thanh tịnh nền tảng (
dBying rNam Dag Gi sGron Ma).
Sau đó, nhờ đạt được kinh nghiệm này, ánh sáng của
hig-le rỗng không (
Thigs Le sTong Pa’i sGron Ma) trong màu đỏ - rõ ràng, tròn và trong sạch - sẽ xuất hiện giống như phác họa trên nước khi ném một hòn đá vào mặt hồ. Hai ánh sáng này (
sGron Ma) hoạt động như nền tảng, một thùng chứa, hay một căn nhà. Cả hai được biểu hiện bằng
pema (hoa sen).
Kesar (nhụy hoa) biểu thị chuỗi
vajra (
rDo rJe Lu Gu rGyud), đó là năng lực của giác tánh nội tại (rig gDangs). Nó là tinh hoa của ánh sáng trí tuệ tự hiện (
Shes Rab Rang Byung Gi sGron Ma) và sự tự-tỏa sáng của giác tánh nội tại thực sự, trí tuệ bổn nguyên.
Dongpo (cuống hoa) biểu thị sự ổn định của lãnh vực nền tảng (
dBying) và giác tánh nội tại (
Rig Pa) nhờ giới hạn năng lực của giác tánh nội tại (
Rig gDangs) trong cõi giới của lãnh vực nền tảng và lúc thúc bách (
gNad gZhi Ba) qua cách thức giải thoát tư duy của giác tánh nội tại (
Rig Pa Rang Bab rTog Med). Bằng việc đạt được kinh nghiệm trong (
la) phương tiện thiện xảo đó.
Dòng 3. Hành giả sẽ đạt được bốn niềm tự tín một cách dần dần và sẽ thành tựu những thị kiến kỳ diệu của nhận biết trực tiếp bản tánh tuyệt đối (
Ch’os Nyid mNgon gSum), sự phát triển kinh nghiệm (
Nyams Gong ‘Phel), và sự viên mãn giác tánh nội tại (
Rig Pa Tshad Phebs). Sau đó, hành giả sẽ đạt được trạng thái hòa tan của (tất cả các Pháp vào) bản tánh nền tảng (
Ch’os Nyid Zad Pa) - sự thành tựu cao nhất, trạng thái của
Vajradhara - trong chính kiếp sống này.
Dòng 4. Sau đó hành giả sẽ được bất khả phân với Tâm của
Pema Jungne, là vị Phật nguyên thủy (
Samantabhadra). Do đó, “Ngài lừng danh là
Pema Jungne”. Dòng 5. Dù không di chuyển khỏi trạng thái bình đẳng của ánh sáng trí tuệ tự hiện, vẫn sẽ có sự lưu xuất tự nhiên của năng lực hóa hiện (
rTsal) của trí tuệ tự hiện đó, trong tướng dạng của nhiều tia sáng cầu vồng di chuyển rõ ràng,
thig-le và các
thig-le nhỏ trong không trung.
Dòng 6. Vào lúc đó, mọi phát triển này chỉ là năng lực của giác tánh nội tại. Do đó, hành giả thiền định về tánh quang minh thể nhập của bốn thiền quán (
Chog bZhag bZhi) trong sự bất biến của cái thấy tự nhiên của thanh tịnh bổn nguyên (
Ka Dag).
Dòng 7. Nhờ thực hành như vậy, cầu mong con tịnh hóa mọi hiện tượng phát sinh do năng lượng nghiệp bất tịnh vào sự rộng mở của trí tuệ bổn nguyên bất hoại để đạt được thân vajra cầu vồng của đại chuyển di (
‘Ja’ Lus ‘Pho Ba Ch’en Po).
MANTRA CẦU THỈNH BAN PHƯỚC Con đường tinh túy sâu thẳm nhất của thể nhập quang minh là sự rèn luyện phi thường, vì nó thiền định về kết quả - tự thân của Phật tánh - như là con đường của sự rèn luyện. Do vậy, nó là cao nhất (GURU), tinh khiết (PADMA) và đạt được sự tối thượng trong chính cuộc sống này (SIDDHI). Kỳ diệu thay (HŪṂ)!
SỰ THÀNH TỰU CỦA KẾT QUẢ
Ý nghĩa gốc HŪṂ - cầu khẩn trí tuệ bổn nguyên.
1. Sự rèn luyện mật truyền đánh thức dòng truyền mật tông (ogyen yul) của Tâm hành giả làm (kyi) siêu vượt mối nối (tsam) của sự chìm đắm (nub) trong sinh tử và giải thoát (chang) khỏi nó,
2. Qua sự đạt được khẩu (pema), ý (kesar), và thân (dongpo) của chư Phật, và (la)
3. [Trí tuệ bổn nguyên của sự đạt được] là kỳ diệu (yatsen). Đây là sự đạt được (nye) của thành tựu cao nhất (chogki ngödrub), trạng thái của Vajradhara.
4. Được lừng danh (zhesu trag) như Padmasambhava tự hiện xác thực (pema jungne).
5. Trí tuệ này với (kor) vô số (mangpo) hóa thân, bao la như hư không (kha), hoạt động (dro) như năng lực của nó (khortu).
6. Con duy trì (dagdrub kyee) trong trạng thái nhận biết (jesu) của bản tánh không nỗ lực, sự thanh tịnh bổn nguyên (khyekyi).
7. Để (chir) hiện tượng hiện hữu xuất hiện như maṇḍala của bốn vajra (chinkyee lab), cầu mong con đạt được (shegsu sol) maṇḍala của nền tảng ban sơ.
Đây là sự nhận biết (HŪṂ) của con đường và trí tuệ, đó là siêu việt nhất (GURU), không nhiễm ô (PADMA), thành tựu tối thượng (SIDDHI).
LUẬN GIẢNG GIỚI THIỆU HŪṂ - trí tuệ bổn nguyên thiêng liêng.
ĐỐI TƯỢNG CỦA BÀI NGUYỆN Dòng 1. Xứ sở
Oḍḍiyāṇa (ogyen yul) là suối nguồn của mật tông, và sự định nghĩa chữ
Oḍḍiyāṇa là “
đi bằng sự bay”. Trong
tantra, sự đánh thức dòng truyền tantric của chính tâm hành giả (
sNgags Kyi Rigs Sad Pa) và đạt giải thoát khỏi bị sa lầy trong những hình tướng nhị nguyên (
gNyis sNang) của sinh tử là rất nhanh chóng, giống như bay.
Nhờ đánh thức tâm, hành giả siêu việt sự việc (
Tsam) của luân hồi và
Niết-bàn bằng sự giải thoát (
chang) khỏi bị chìm đắm (
nub) trong sình lầy của sinh tử, tịnh hóa nó khỏi mọi nhiễm ô và hóa tán những hình tướng huyễn ảo vào lãnh vực nền tảng.
Dòng 2. Sự thành tựu của thanh tịnh tất cả âm thanh như
maṇḍala của
khẩu (Pema), sự viên mãn tất cả tư duy như
maṇḍala của
ý (kesar), và sự chín muồi của tất cả hình tướng như
maṇḍala của
thân (dongpo) - ba phương diện bí mật (
gSang B gSum) của Phật tánh - và (
La)
Dòng 3. Trí tuệ bổn nguyên của sự thành tựu, đó là nhất như và bình đẳng, là sự kỳ diệu (
yatsen).
Khi hành giả nhận ra điều này, nó là sự đạt được bất khả phân của nền tảng và kết quả, sự thành tựu cao nhất (
chogkyi ngödrub), trạng thái của
Vajradhara. Dòng 4. Sự đạt được này lừng danh (
zhesu trag) là
Padmasambhava tuyệt đối (
pema jungne),
Dòng 5. Và bản tánh của nó là không lệch khỏi nền tảng bổn nguyên. Tuy nhiên, từ trí tuệ ban sơ, có vô số (
mangpo) hoạt động (
dro) xuất hiện (
kor) của những hiện thân của luân hồi và niết bàn, bao la như bầu trời (kha), xuất hiện như năng lực của nó (
khor).
CẦU NGUYỆN Dòng 6. Nếu, đã nhận ra ý nghĩa bản tánh và thực tại của sự đạt được này, sau đó hành giả vẫn ở trong nó không xao lãng, giống như không thể kiếm được đá sỏi trong một hòn đảo toàn bằng vàng ròng. Do vậy mọi hình tướng bất tịnh sẽ đi đến kết thúc và chỉ còn những hình tướng thanh tịnh bổn nguyên xuất hiện. Hành giả sẽ đạt giải thoát khỏi tất cả ràng buộc của nghiệp và cảm xúc phiền não. Tất cả phẩm tánh thiện sẽ thành tựu tự nhiên và không cần nỗ lực, và hành giả sẽ đạt được
Dharmakāya giai đoạn vĩnh viễn. Do vậy, nó là
sự duy trì (dag drub kyee) trong trạng thái nhận biết (jesu) của thanh tịnh bổn nguyên (khyekyi). Dòng 7. Tất cả hiện tượng hiện hữu đều xuất hiện trong tướng dạng
maṇḍala của bốn
vajra (
chinkyee lab chir), sự ban phước của trí tuệ bổn nguyên của chính tâm hành giả. Sự thành tựu này xuất hiện như kết quả của việc đạt được (
shegsu sol) nền tảng bổn nguyên, chân lý tối thượng.
MANTRA CẦU THỈNH BAN PHƯỚC Đây là sự nhận biết (HŪṂ) của con đường và trí tuệ, đó là cao nhất (GURU), không nhiễm ô (PADMA), thành tựu tối thượng (SIDDHI).
KẾT THÚC THỰC HÀNH Trước tiên, việc thực hành
Bài nguyện Vajra bảy dòng như
Guru Yoga, theo ý nghĩa thông thường, sẽ gây ra sự xuất hiện của trí tuệ bổn nguyên uyên thâm. Do học tập những điểm trọng yếu của con đường giải thoát, phương tiện thiện xảo, hay Đại Viên Mãn từ một vị
Lama đủ phẩm tánh và thực hành siêng năng, hành giả sẽ đạt được tự tin trong nhận biết, tự thân kết quả như đã giải thích chi tiết trong giáo lý, và sẽ đạt tới trạng thái của
Vidyādhara (Bậc Trì Minh).
Với niềm tin không dao động, hãy quán tưởng
Guru Rinpoche trên đỉnh đầu của hành giả, hiện thân của tất cả sự quy y. Hãy cầu nguyện mạnh mẽ đến Ngài bằng
Bài nguyện Vajra bảy dòng. Nhờ cam lồ rót xuống từ thân
Guru, mọi tật bệnh, ác nghiệp, và đau khổ của thân, khẩu, và ý hành giả đều được tẩy sạch trong dạng máu, mủ, côn trùng, muội khói và rác rưởi. Vào lúc cuối, chính thân thể hành giả tan hòa, giống như muối tan trong nước, và sau đó chất lỏng này chảy vào miệng của
Yamarāja, Tử Thần, và các chủ nợ nghiệp khác bị chôn dưới đất. Tin tưởng rằng nó đã thỏa mãn tất cả bọn họ và mọi nghiệp đã được xóa sạch. Vào lúc cuối, hành giả nên xem tất cả đều biến mất vào hư không.
Một lần nữa, hãy quán tưởng chính thân thể bạn trong dạng thân ánh sáng rực rỡ của một thần thánh - bất cứ dạng nào mà bạn thích. Nơi ngực của vị thánh, tại trung tâm của một hoa sen tám cánh, vị
Lama đi xuống đỉnh đầu bạn và trở thành một với tinh chất bất hoại (
bindu), trí tuệ bổn nguyên. Sau đó hành giả nên trụ trong cực lạc của trí tuệ bổn nguyên.
Giai đoạn hậu thiền định phải được ứng xử như sau: mọi hình tướng đều được thấy như một tịnh độ và như các thần thánh, thực phẩm và nước uống như sự cúng dường, và các hoạt động được thấy như đi, ngồi, đảnh lễ và đi nhiễu quanh. Khi ngủ, bạn nên quán tưởng
Guru trong ngực bạn. Trong tất cả hoạt động hằng ngày, bạn phải cố gắng chuyển hóa mọi sự vào các thực hành đạo đức không gián đoạn. Việc quán tưởng
Lama trong bầu trời phía trước bạn và bày tỏ cúng dường, dâng cúng tán thán, cầu khẩn tâm Ngài, và tiếp nhận sự ban phước thân, khẩu, và ý của Ngài là điều quan trọng. Nói chung, đây là vì các phẩm tánh thiện của cảnh giới cao của sự giải thoát, và nhất là sự phát triển nhận biết của con đường thâm sâu, chỉ tùy thuộc sự ban phước của
Guru đi vào tâm của chính hành giả.
Để đạt được trí tuệ bổn nguyên tuyệt đối trong chính tâm hành giả, hành giả phải được quen thuộc với các giáo lý đã cho trong
sutra và
tantra nói chung, và nói riêng là với sự giới thiệu trực tiếp (
Ngo ‘Phrod) đến trí tuệ bổn nguyên xác thực (
Don Gyi Ye Shes). Và, tùy theo kinh nghiệm, nhận biết và khả năng, hành giả nên thiền định về bất cứ con đường giải thoát hoặc phương tiện thiện xảo nào thích hợp với chính hành giả. Nhờ làm điều này, hành giả sẽ đủ điều kiện đạt được cả hai thành tựu thông thường và tối thượng.
Trích
"Hành Trình Giác Ngộ", Tulku Thondup