BỐN PHÁP CỦA GAMPOPA
Tulku Urgyen Rinpoche Trước khi thọ nhận giáo lý, hãy cùng khởi lên động cơ của bồ đề tâm cao quý. Hãy mong ước rằng: “Con sẽ nghiên cứu Pháp và thực hành đúng đắn để thiết lập tất cả những bà mẹ của con, hữu tình chúng sinh nhiều như hư không, trong trạng thái giải thoát và giác ngộ tối thắng.”
Tôi muốn giới thiệu một giáo lý gọi là
“Bốn Pháp của Gampopa,” tương tự như bốn chỉ dẫn của ngài Longchen Rabjam. Đầu tiên trong đó là cách thức chuyển tâm về thực hành Pháp. Bao trọn trong đó là bốn niệm chuyển tâm. Pháp thứ hai là cách thức đảm bảo rằng thực hành Pháp trở thành con đường. Điều này bao gồm những giáo lý về thực hành dự bị bốn lần một trăm nghìn. Trong Pháp thứ ba, cách thức để xua tan vô minh trên con đường, có những giáo lý về giai đoạn phát triển, trì tụng và giai đoạn hoàn thiện. Và trong Pháp thứ tư, có những giáo lý về cách thức đạt được sự xác quyết, chứng ngộ trạng thái tự nhiên bằng ba tri kiến vĩ đại. Người ta nói rằng nền tảng là Đại thủ ấn, con đường là Trung Đạo và kết quả là Đại toàn thiện. Bốn Pháp của Gampopa chứa đựng trọn vẹn con đường để mỗi cá nhân đạt đến giác ngộ hoàn hảo trong thân này và đời này.
Tất cả chúng ta ở đây đã có được điều vô cùng khó khăn mới đạt được – thân người quý giá với tám tự do và mười thuận duyên. Đó là thứ gì đó chỉ xảy ra trong một trong một trăm niên kỷ. Hiện tại nó xảy đến với chúng ta, chính thời điểm này. Khi chúng ta còn sống trong thân người này, nó dường như thật dễ dàng để sinh ra làm người. Dường như chẳng cần nỗ lực gì. Tuy nhiên, thành thật mà nói, thân người là cực kỳ khó đạt được và đòi hỏi một lượng công đức lớn lao từ nhiều đời quá khứ. Chính bởi nghiệp tốt lành trong quá khứ kết hợp với những khát nguyện thanh tịnh mà hiện tại chúng ta có được thân người quý giá.
Hoàn cảnh hiện tại của chúng ta giống như việc tìm thấy một viên ngọc quý. Đừng lãng phí nó. Thời gian đang cạn dần; chúng ta đều phải chết. Nguyên nhân của việc không thể đạt được trạng thái hoàn hảo về vật chất trong đời này là bởi không gì tồn tại mãi. Mọi thứ là vô thường; mọi người đều chết. Nếu lúc chết là kết thúc hoàn toàn, giống như nước khô hay lửa bị dập tắt, nó sẽ ổn – cái chết sẽ chẳng có kết quả gì. Không may là, điều này không xảy ra. Những kết quả của nghiệp theo chúng ta sau khi chết như hình với bóng. Luật nhân quả khiến chúng ta phải trải qua những kết quả của việc ta đã làm. Những nơi mà chúng ta trải qua sự chín muồi của nghiệp được gọi là sáu cõi luân hồi. Tình thế này đã tiếp diễn từ vô thủy và chúng ta vẫn chưa được giải phóng.
Hãy quán chiếu về ý nghĩa của bốn chủ đề tôi vừa đề cập: khó khăn của việc có được thân người quý giá, sự thật rằng không gì tồn tại mãi, rằng chúng ta đều phải chết, và mọi người đều bị chi phối bởi kết quả của những hành động nghiệp, chẳng có nơi nào trong luân hồi có hạnh phúc mãi mãi. Chúng được gọi là bốn niệm chuyển tâm. Việc thấu triệt chúng là vô cùng quan trọng, bởi vì chúng không phải điều hư cấu hay ảo tưởng. Chúng là sự thật; chúng giải thích những hoàn cảnh và điều kiện mà chúng ta sống trong luân hồi.
Không phải là không thể hiểu được rằng chúng ta phải chết, cũng như những chi tiết về điều tiếp theo. Chúng ta đều đứng thành hàng vì điều đó, chờ đợi nó xảy ra. Chúng ta cần đối mặt với những sự thật này theo một cách thức thực tế. Trước khi bắt đầu thực hành chánh Pháp, điều quan trọng là cần hiểu chúng thực sự. Đó là điểm đầu tiên trong
Bốn Pháp của Gampopa: cách thức hướng tâm về với Pháp.
Thứ hai, cách thức đảm bảo thực hành Pháp trở thành con đường, bao gồm các thực hành sơ khởi bốn lần một trăm nghìn. Thông qua bốn niệm chuyển tâm, chúng ta phát triển mong muốn giải phóng khỏi luân hồi và đạt được trạng thái giác ngộ cao quý, không chỉ cho bản thân, mà còn cho tất thảy chúng sinh. Chúng ta đã sẵn sàng quy y Tam Bảo. Phật là trạng thái toàn tri giác ngộ hoàn toàn và hoàn hảo. Pháp là con đường dẫn tới trạng thái đó, tức là các giáo lý. Tăng là tất thảy chư đạo sư, những bậc nắm giữ, xiển dương và hoằng bá giáo lý từ thời Đức Phật cho đến bậc thầy từ ái của chúng ta, những người mà chúng ta đã kết nối. Quy y Tam Bảo với niềm tin và xác quyết trọn vẹn đảm bảo rằng chúng ta có cơ hội trở thành những bậc giác ngộ. Quy y và tìm kiếm chỉ dẫn từ Tam Bảo là điều mở ra con đường dẫn tới giác ngộ. Đó là phần đầu tiên trong các thực hành sơ khởi.
Tiếp theo điều này là phát bồ đề tâm. Không có bồ đề tâm, chúng ta không thể bước đi trên con đường Đại thừa. Hiểu biết rằng mọi hữu tình chúng sinh khác thực sự là cha mẹ chúng ta trong các đời quá khứ đã cung cấp nền tảng quan trọng cho những tiến bộ. Từng con côn trùng nhỏ bé mà chúng ta gặp, không ngoại lệ, đều là cha mẹ chúng ta – không chỉ một lần, mà rất nhiều lần. Và tất cả đều đang bước sai đường. Họ muốn hạnh phúc, nhưng không biết cách thức đạt được. Phát triển bồ đề tâm nghĩa là tạo ra lòng quyết tâm dũng mãnh nhất này: “Con sẽ dẫn dắt mọi hữu tình chúng sinh đến trạng thái giác ngộ!” Giới Bồ Tát này là điều tạo ra sự khác biệt giữa một hành giả Tiểu thừa và Đại thừa. Thọ nhận giới này được gọi là phát bồ đề tâm. Quy y và phát bồ đề tâm là tinh túy của con đường.
Khi thực hành một nghi quỹ, chúng ta có thể thực hành ba thừa – Tiểu thừa, Đại thừa và Kim Cương thừa – một cách đồng thời. Bất cứ khi nào bạn thực hành một bổn tôn đặc biệt, bạn luôn bắt đầu với quy y và bồ đề tâm, những yếu tố của Tiểu thừa và Đại thừa. Không có cách nào khác. Bổn tôn, trì tụng thần chú và quán tưởng, là thực hành Kim Cương thừa. Như thế, không thể thực hành Kim Cương thừa mà không là hành giả Tiểu thừa và Đại thừa. Ba thừa được thực hành trên cùng một tấm nệm.
Các thực hành của cả ba thừa đều nằm trọn trong thực hành sơ khởi. Thực hành đầu tiên là Quy y và Phát bồ đề tâm. Sau đó là Quán tưởng và trì tụng Kim Cương Tát Đỏa, thực hành Kim Cương thừa thực sự. Thực hành Kim Cương Tát Đỏa bao gồm bốn sức mạnh chữa lành, đầu tiên là sức mạnh của sự hỗ trợ - quán tưởng Phật Kim Cương Tát Đỏa. Thứ hai là sức mạnh của phương pháp đối trị được áp dụng, trì tụng thần chú trăm âm của Đức Kim Cương Tát Đỏa và quán tưởng trận mưa và sự tịnh hóa bằng cam lồ. Thứ ba là sức mạnh của sự ăn năn về các ác hạnh trong quá khứ. Thứ tư là sức mạnh của lòng quyết tâm, hứa nguyện không bao giờ tái phạm. Đức Phật dạy rằng thực hành trì tụng thần chú Kim Cương Tát Đỏa trong khi nhớ về bốn sức mạnh chữa lành này giúp tịnh hóa mọi ác nghiệp, thậm chí dù nó có lớn như núi Tu Di.
Sau khi trì tụng thần chú Kim Cương Tát Đỏa sẽ đến phần Cúng dường mạn-đà-la, điều đảm bảo rằng chúng ta sẽ không tạo ra chướng ngại trên con đường thực hành. Trong đó, chúng ta sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi bằng việc tích tập những thứ chúng ta có thể mang theo – sự tích lũy công đức và trí tuệ. Có ba cấp độ cúng dường mạn-đà-la: mạn-đà-la bên ngoài, cúng dường vũ trụ bên ngoài; mạn đà la bên trong, cúng dường các chúng sinh bên trong; và cuối cùng mạn đà la bí mật, cúng dường sự như thị tuyệt đối, tương ứng với ba thân. Kết hợp cùng nhau, ba cấp độ này được gọi là “tích tập công đức và trí tuệ.”
Sau đó là Đạo sư Du già, phần thứ tư trong các pháp tu sơ khởi. Đạo sư Du già thường được nói là thâm sâu hơn cả thực hành chính yếu, bởi trong đó, chúng ta nhận được sự gia trì từ một truyền thừa không gián đoạn các đạo sư. Sự gia trì này đến từ Pháp thân Phật Phổ Hiền đến bậc thầy gốc của chúng ta. Nó giống như ống nước nối nhà bạn và trạm cấp nước, thứ cho phép nước chảy ra khi bạn mở vòi. Dòng truyền thừa không gián đoạn của các đạo sư giác ngộ kết nối với bạn nhờ những vị thầy của bạn giống như ống nước đó. Nhờ đó, chúng ta có thể nhận được sự gia trì của Phật, Pháp và Tăng, của ba thân trong thực hành của chúng ta.
Khi thực sự dấn thân vào các thực hành sơ khởi, chúng ta có thể xua tan chướng ngại trên con đường tâm linh và tạo ra nhiều thuận duyên để nhanh chóng chứng ngộ kết quả tối thắng. Đó chính xác là ý nghĩa của Pháp thứ hai trong Bốn Pháp của Gampopa: cách thức đảm bảo thực hành của Pháp trở thành con đường.
Một vài người coi họ là hành giả của riêng Đại thừa hay Kim Cương thừa. Số khác nói họ chỉ theo Theravada, rằng họ không biết điều gì khác ngoài đó. Nhưng nói như vậy chỉ cho thấy sự thiếu hiểu biết. Ba thừa không hề tách biệt. Chúng ta có thể thực hành chúng đồng thời – thực sự, chúng ta cần phải như vậy để có một nền tảng vững chắc. Không thực sự thấu triệt bốn niệm chuyển tâm và quy y, chúng ta không có nền tảng thực sự để kết nối với các giáo lý Phật Đà. Giống như vậy, nếu bạn muốn uống trà, bạn cần một chỗ để cái cốc. Bạn cần cái bàn, giống như nền tảng của giáo lý Tiểu thừa hay Thanh Văn thừa. Bạn cũng cần cái cốc đựng trà, tức là thái độ Đại thừa. Và bạn cần trà – nếu không sẽ chẳng có gì để uống, và bạn cần phải uống. Giáo lý Kim Cương thừa giống như chất lỏng được đổ vào cốc.
Giống như vậy, để giác ngộ, trước tiên chúng ta cần kết nối với Tam Bảo. Quy y liên quan đến việc giao phó bản thân; điều đó chứa đựng giáo lý Tiểu thừa. Sau đó, mục đích của việc đơn độc giác ngộ trong khi tất thảy những bà mẹ của chúng ta trôi lăn trong luân hồi là gì? Điều đó thật đáng xấu hổ. Người ta nói rằng quan điểm Tiểu thừa thì nhỏ bé như vũng nước, trong khi Đại thừa thì rộng lớn như đại dương. Mọi người cần giác ngộ - không phải chỉ riêng chúng ta. Thứ ba, không có giáo lý thâm sâu của Kim Cương thừa bao gồm bổn tôn, thần chú và định, chẳng có cách nào để chứng ta đạt tới giác ngộ hoàn toàn trong chính đời này và thân này. Vì thế, chúng ta cần cả ba thừa: Tiểu thừa, Đại thừa và Kim Cương thừa. Thật vô ích khi tự coi bản thân là một hành giả cao cấp, kẻ chẳng cần những giáo lý “thấp hơn.” Thái độ như vậy sẽ là phi thực tế.
Đảm bảo rằng thực hành Pháp trở thành con đường nghĩa là tịnh hóa những che chướng và ác hạnh, điều tạo ra chướng ngại và ngăn cản con đường dẫn tới giác ngộ hoàn toàn. Có một nguyên nhân chính để thực hành các pháp tu sơ khởi, mặc dù vài người có thể nghĩ rằng chúng là không cần thiết. Nhờ thực hành sơ khởi, chúng ta thực sự có thể xua tan chướng ngại và khiến thực hành Pháp trở thành con đường giác ngộ.
Khi đã xua tan chướng cản và tích tập công đức và trí tuệ, chúng ta bước sang Pháp thứ ba của Gampopa: cách thức để con đường xua tan vô minh. Vô minh ở đây được hiểu là thứ che lấp bản tính thiên bẩm của chúng ta và ngăn cản giác ngộ. Mọi người đều có Phật tính, mọi hữu tình chúng sinh không sót một ai. Không may là, chúng ta không biết tài sản đó. Chúng ta rơi vào vô minh và trôi lăn trong luân hồi. Hãy tưởng tượng khi một viên ngọc như ý rơi xuống bùn và bị che lấp bởi đất bẩn. Trước tiên, viên ngọc cần được nhận ra. Sau đó nó cần được làm sạch. Khi điều này xảy ra, nó có thể được sử dụng. Chúng ta đều là những viên ngọc như ý, nhưng không biết về điều đó, và như thế không thể sử dụng chúng. Chúng ta cần lau sạch chất bẩn bao trùm trạng thái cơ bản của bản thân, tức viên ngọc như ý. Cách thức để làm điều này là thực hành Kim Cương thừa.
Cách thức tốt nhất và thâm sâu nhất để làm vậy là nhờ ba nguyên tắc của thực hành Kim Cương thừa: bổn tôn, thần chú và định. Bằng việc tu tập trong giai đoạn phát triển bao gồm bổn tôn, thần chú và định, chúng ta hiện thực hóa điều mà chúng ta đã là. Để thực hành giai đoạn phát triển một cách đúng đắn, chúng ta cần buông bỏ tri kiến thế tục vật chất, tầm thường. Đừng trì tụng những lời cầu nguyện bổn tôn khi nghĩ rằng, “Tôi đang ở thế giới này, trong ngôi nhà bình thường, trong thân bình thường của tôi.” Trước tiên chúng ta cần tan hòa mọi thứ vào hư không rộng lớn, sau đó quán tưởng cung điện linh thánh, ngai tòa của bổn tôn và mọi chi tiết khác. Nhờ việc tu tập về bổn tôn, thần chú và định này, chúng ta có thể khiến con đường xua tan vô minh.
Hãy nhớ rằng, trong thực hành giai đoạn phát triển, chúng ta không quán tưởng rằng chúng ta là thứ gì đó mà chúng ta không phải là. Mọi người đều sở hữu tinh túy giác ngộ, điều được ban tặng với ba kim cương, ba khía cạnh giác ngộ. Cách thức để nhận ra điều đó một cách trọn vẹn là nhờ bổn tôn, thần chú và định. Thực hành phát triển là đơn giản biết bản chất của mọi thứ như nó là. Tu tập như vậy giống như biết viên ngọc là viên ngọc như ý, điều mà nó thực sự là. Nó không phải là việc chúng ta tưởng tượng một viên đá bình thường trở thành một viên ngọc. Viên đá không bao giờ sở hữu giá trị hay phẩm chất của viên ngọc, dù chúng ta quán tưởng thế nào. Thực hành giai đoạn phát triển vô cùng thâm sâu.
Bây giờ hãy xem xét Pháp thứ tư của Gampopa, để vô minh tỏa sáng như trí tuệ. Mặc dù điều sắp được nói ở đây nghe rất cao xa, tôi không tự tạo ra điều gì. Tôi không có khả năng tạo ra giáo lý của riêng mình hay sáng tạo con đường mới vẻ, thâm sâu, không gì hết! Thậm chí nếu tôi có thể, cũng vô ích khi làm vậy, bởi người ta sẽ không thích thú. Thay vào đó, tôi lặp lại những lời dạy của Đức Phật và các đạo sư vĩ đại trong quá khứ.
Mọi hữu tình chúng sinh, không một ngoại lệ nào, đều có Phật tính, từ Pháp thân Phật đến con côn trùng bé nhất. Không có sự khác biệt nào giữa phẩm chất hay kích cỡ của tinh túy giác ngộ giữa từng cá nhân. Tuy nhiên, chư Phật và những Bồ Tát giác ngộ hoàn toàn đã cắt bỏ tâm nhị nguyên từ đầu. Đó là cách mà các ngài khác với hữu tình chúng sinh. Sự hiển bày của tâm chư Phật và Bồ Tát mang hình tướng những hoạt động từ ái. Hoạt động này, nhờ những hóa thân và tái sinh, xuất hiện trong mọi cõi luân hồi để giảng dạy chúng sinh.
Mặt khác, hữu tình chúng sinh rơi vào tầm ảnh hưởng của suy nghĩ nhị nguyên. Sự chú ý của một người bình thường sẽ trượt theo sự chuyển động của tâm. Đột nhiên, có sự hỗn độn trong việc tin tưởng về ngã và tha, chủ thể và đối tượng, và điều này cứ tiếp diễn không ngừng. Đó là luân hồi. Phật và Bồ Tát đã thành công trong việc đi tới miền đất giác ngộ. Nhưng chúng ta, hữu tình chúng sinh trở nên hoang dại, và đang trong trạng thái không thành công, không thỏa mãn. Chúng ta vẫn trong đại dương luân hồi; chúng ta chưa thể nhô lên khỏi mặt nước. Chúng ta trôi lăn trong trạng thái vô minh không ngừng. Cùng lúc đó, chúng ta không mất đi Phật tính. Phật tính không bao giờ tách rời khỏi tâm dù chỉ một giây. Mặc dù chúng ta không tách rời khỏi nó, chúng ta không biết nó, và vì thế, trôi lăn trong luân hồi.
Bây giờ là lúc để giải phóng bản thân khỏi luân hồi. Nếu chúng ta không làm vậy trong đời này, nó sẽ không tự diễn ra. Chúng ta phải chăm lo cho bản thân. Ngay bây giờ, chúng ta có khả năng thọ nhận giáo lý và thực hành Pháp. Điều này không đúng sao? Chẳng phải sẽ tốt hơn nếu không tiếp tục hành xử như con vật, chỉ tập trung vào ăn ngủ và để thời gian trôi qua? Tại sao không nắm lấy tương lai của mình?
Chúng ta có thể nhận ra bản tính bởi chúng ta đã trải nghiệm lòng từ ái vĩ đại của một bậc giác ngộ hoàn toàn đã hiển bày trên cõi giới này. Đức Phật không chỉ xuất hiện, ngài đã thuyết giảng những chỉ dẫn quý giá về cách thức chứng ngộ Phật tính. Và những giáo lý về cách thức nhận ra tinh túy giác ngộ này vẫn được trao truyền nhờ dòng truyền thừa không gián đoạn các đạo sư vĩ đại.
“Vô minh tỏa sáng như trí tuệ” nghĩa là nhận ra rằng Phật tính tràn khắp mọi hữu tình chúng sinh. Chúng ta không mất nó; nó không bao giờ tách rời khỏi tâm chúng ta dù chỉ một giây. Phật tính này luôn hiện hữu, và thứ duy nhất che lấp nó là ý nghĩ của chúng ta. Không gì khác che lấp nó. Tinh túy bị che lấp bởi sự hiển bày. Điều này giống như mặt trời chiếu sáng rạng ngời trên bầu trời quang. Thứ duy nhất che lấp mặt trời là những đám mây. Và những đám mây tự chúng được tạo thành nhờ sự hiển bày của mặt trời – ánh sáng và hơi ấm. Chúng không đến từ một nơi nào khác. Sức nóng từ mặt trời khiến nước bốc hơi và tạo thành những đám mây che lấp mặt trời. Giống như vậy, sự hiển bày những chú ý của chúng ta mang hình tướng là ý nghĩ vô minh che lấp chúng ta. Nói cách khác, chúng ta đang che lấp Phật tính của mình, và bây giờ là lúc để xua tan vô minh này.
Hiện nay, chúng ta có đủ phước báu để có những giáo lý tuyệt vời, điều chỉ cho chúng ta cách thức nhận ra bản tính và đạt được giải thoát. Nếu chúng ta lựa chọn sẽ duy trì bị che lấp bởi hành động và cảm xúc, chúng ta sẽ không biết điều gì sẽ xảy ra tiếp sau. Chúng ta sống ngày này qua ngày khác. Nếu mai chúng ta chết, hôm nay chúng ta cũng không biết. Chúng ta thực sự ngu ngốc như lũ vật. Từ một quan điểm khác, thậm chí chúng ta còn ngốc hơn, bởi vì chúng ta có thể nhận giáo lý về cách thức thực hành; thực sự, chúng đã có thể đã làm vậy. Nếu chúng ta không áp dụng chúng, chúng ta còn ngu hơn nhiều so với một con vật. Động vật không thể làm được gì; chúng ở trong thân tướng không thể thọ nhận giáo lý. Nhưng không may là, chúng ta, những con người, kẻ đã được giới thiệu con đường tâm linh, có thể lãng phí cơ hội quý giá này. Điều đó sẽ thật đáng buồn!
Nhờ lòng từ bi của Tam Bảo, bây giờ chúng ta có phước báu để thọ nhận giáo lý, nhờ đó có thể để vô minh chói ngời như trí tuệ. Vô minh ở đây nghĩa là tin rằng mọi thứ là cái mà nó không phải là. Vô minh giống như nhầm lẫn. Làm sao chúng ta có thể chuyến hóa vô minh thành trí tuệ? Đầu tiên, chúng ta cần hiểu vô minh là gì. Vô minh là việc nhầm lẫn điều nó không phải với điều nó là. Nó ngược lại với việc biết điều nó là như nó là. Ở Tây Tạng có một loại thuốc gọi là datura, thứ mà khi bạn uống, sẽ khiến người khác xuất hiện như thể họ có năm mười cái đầu hay ba mươi tay. Chúng ta biết rằng điều này là không thể trên thế giới này; đây là ví dụ về vô minh.
Phật tính có ba phẩm tính của Thân, Khẩu và Ý giác ngộ. Phẩm tính bất biến, giống như sự mở rộng của hư không được gọi là thân kim cương. Phẩm tính không ngừng gọi là khẩu kim cương. Phẩm tính không sai lầm, khả năng nhìn nhận mà không cần ý nghĩ, được gọi là ý kim cương. Ba điều này – thân, khẩu và ý kim cương – luôn hiện hữu như là bản chất của mọi hữu tình chúng sinh. Tất cả những gì chúng ta cần làm là nhận ra điều này. Mặc dù chúng ta có ba kim cương, chúng ta không biết điều đó, và tiếp tục trôi lăn trong luân hồi. Vô minh thông thường che lấp ba kim cương thiên bẩm của chúng ta. Thân vật lý với thịt và máu che lấp thân kim cương. Những từ ngữ và âm thanh chúng ta phát ra, thứ bị gián đoạn và được tạo ra gián đoạn, che lấp phẩm tính không ngừng của khẩu kim cương. Và những ý nghĩ đến và đi của chúng ta, không ngừng khởi lên và ngừng lại từ lúc này qua lúc khác, ngày qua ngày, đời này sang đời khác, chính xác là thứ che lấp phẩm tính không sai lầm của ý kim cương. Điều cần thiết bây giờ là nhận ra bản tính của bản thân, thay vì vô minh như vậy.
Trích: Như nó là (tập 1), Tulku Urgyen Rinpoche.
Việt dịch: Pema Jyana. Nguồn:
thuvienhoasen.org