PHẬT THI TRIỂN THẦN THÔNG NGÀY THỨ MƯỜI LĂM
(Phần 1)
Ngày thứ mười lăm, vua Bình Sa thỉnh Phật cúng dàng. Hôm đó Phật phán cho ông sửa soạn các món ăn. Theo lời Phật dạy nhà vua sai người bày rất nhiều chén bát và các đồ để chứa món ăn trên bàn, khi bày xong tự nhiên các chén bát đầy các món ăn ngon quý trên thiên cung, mùi cơm thơm ngào ngạt. Tất cả những người trong đại hội ăn cơm xong thân tâm dũng mãnh an vui.
Sau bữa ăn, Ðức Thế Tôn chỉ ngón tay xuống đất, ai ai cũng được nhìn thấy mười tám Địa Ngục, và thầy rất nhiều tội nhân, những tội nhân ấy, tự nói những tội ác của mình đã tạo đời trước, nên nay họ phải chịu tội khổ. Thấy thế ai cũng thương hại và sợ hãi cho mình, nên thân thể đều run rẩy không yên!
Để cho mọi người chứng tỏ của sự ác báo, có cụ thể, rồi Ngài phân tách những tội lỗi đó cũng do từ nơi thân miệng ý gây nên, và Ngài vạch vẽ những lối thoát khổ, nên nhiều người phát tâm đại đạo, kết quả sinh Thiên rất nhiều.
Những tội nhân được thấy Phật và nghe thuyết pháp, họ tự phát sinh lòng tôn kính quay đầu về nơi Phật, thì những tội nhân ấy được sinh Thiên hoặc sinh làm người tất cả.
Tới đây vua Bình Sa đến trước Ðức Thế Tôn, năm thể gieo xuống đất, lễ xuống ba lần, rồi quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng:
- Kính lạy Ðức Thế Tôn, Ngài có ba mươi hai tướng tốt đẹp, chúng con chỉ được coi thấy tướng ở thân
Ngài, hoặc ở tay Ngài, nhưng chưa từng bao giờ được nhìn thấy luân tướng ở gan bàn chân, vậy kính xin cho con và đại chúng ở đây được chiêm ngưỡng.
Theo lời cầu thỉnh của nhà vua, nên Phật ngửa hai bàn chân lên. Đại chúng nhìn thấy trang nghiêm nước da sáng suốt, những đường chỉ thẳng thắn phân minh, rành rẽ, càng xem càng mến! Nhà vua mừng bạch rằng:
- Kính lạy Ðức Thế Tôn! Chẳng hay đời quá khứ Ngài làm phước gì, được tướng đẹp này, cúi xin chỉ giáo?
Phật dạy: - Đại Vương nên biết, đời quá khứ ta tu thập thiện và đem thập thiện dạy cho người ta cùng tu, cho nên được luân tướng như thế!
- Kính lạy Ngài! Khi tu và dạy người nghe hãy như thế nào, cúi xin chỉ giáo cho chúng con được biết.
Phật dạy: - Đại Vương muốn nghe hãy chú ý nghe kỹ: Cách đây vô số kiếp A Tăng Kỳ, cũng Châu Diêm Phù Đề này có một ông vua nước lớn tên là Đà La Ni Di, thống trị tám mươi tư ngàn nước nhỏ, tám mươi ức tụ lạc, một vạn quan Đại thần, hai vạn bà Phu nhân, nhưng không ai có con. Nhà vua lo tuyệt tự không người kế vị, nên thường hay cầu đạo ở miền Thiên Vương, được ít lâu bà Tu Lê Bà La là đệ nhất Phu nhân có thai, lòng nhân từ bác ái lại hay khuyên người làm lành. Mãn tháng khai hoa, sinh được Thái Tử tướng mạo khôi ngô tuấn tú, một vẻ trượng phu đầu phúc đức, những lỗ chân lông đều có ánh sáng.
Khi bà sanh được Thái Tử nhà vua vui vẻ khôn cùng! Triệu các thầy tướng đến coi. Các thầy tướng đều khen ngợi và nói:
- Tâu Bệ Hạ! Hoàng tử có đầy đủ phước đức oai nghi, sau này có thể trị an bốn bể, thiên hạ phải tùng phục, muôn phương kính nể.
Nghe tướng Sư nói, nhà vua rất hài lòng và nhờ đặt tên cho Thái tử.
Tướng Sư nói: - Tâu Bệ Hạ, trong khi hoài thai có điềm tướng gì lạ không?
Đáp: - Khi đó Hoàng hậu có trí tuệ thông sáng và nhân từ, lại hay khuyên người tu thiện, còn các điềm lành cũng rất nhiều, nhưng có hai điềm ấy lạ hơn.
Tướng sư nói: - Tâu Bệ Hạ! Cứ theo Hoàng hậu có trí tuệ, và Hoàng tử có ánh sáng nơi thân thể thì xin đặt Na Bà La Mãn (Tàu dịch: “Tuệ Quang")
Quả nhiên Thái tử lớn lên có trí tuệ siêu nhân, tất cả các môn học thuyết đều thông hiểu, các danh nhân hiền triết trên thế giới đều bái phục, lực thông minh của Thái tử. Năm ấy Thái tử chưa đến tuổi trưởng thành, thì vua cha băng hà (chết).
Trong triều các quan và nội cung hoàng tộc làm lễ an táng vua xong. Giữa lúc ấy có đông đủ tám vạn bốn ngàn vua nước nhỏ và triều thần văn võ bản quốc hội họp, bầu Thái tử lên kế vị đại Quốc vương.
Thái tử nói:
- Kính thưa các Quốc vương quý quốc và văn võ bá quan, bản triều tôi thực không có năng lực đảm đương đại sự, xin suy tôn các vị có tài đức trị dân!
Các quan đều thưa:
- Thưa Thái tử, đại vương đã qua đời, chỉ sinh được mình Thái tử anh em không có một ai, nếu Thái tử không chịu ra chấp chính bây giờ nhường ai? Ai là người đương nổi?
Thái tử đáp: - Tôi nhận thấy trên đời lắm kẻ tàn ác, nếu ra lệnh hành phạt họ, thì tội ấy không phải nhỏ, nếu các Ngài trị dân chúng dùng chánh pháp và bắt dân tu theo pháp thập thiện thì tôi sẽ nhận chức bảo lãnh việc nước!
Các quan nói:
- Thưa Thái Tử! Xin Thái tử thăng điện nhậm chức!
Theo lời nói, Thái tử thăng điện nhậm chức.
Sau ngày Thái Tử lên làm vua, sửa sang việc nước rất có chánh thể ích quốc lợi dân, bãi bỏ hủ tục mê tín cờ bạc, mãi dâm, hút xách, rượu chè, và bắt dân phải thực hành tu theo thập thiện. Thái tử có đức lớn, lòng từ bi cứu thế cảm động trời đất nên muôn dân vui vẻ tuân theo tu thập thiện, cải tà quy chính, đổi ác làm lành.
Khi đó Ma Vương thấy nhà vua bắt dân tu thiện, lòng đố kỵ nổi giận dùng mưu phá chánh sách tu thiện của muôn dân, chúng muốn cho dân làm nô lệ chết sa vào tam ác đạo, thực là đại ác nham hiểm vô cùng. Chúng mật làm một phong thơ báo cáo cho vua các nước để phá hoại sự giáo hóa tu thập thiện của nhà vua. Thư nói:
“Trước đây tôi có sắc lệnh cho nhân dân tu theo pháp thập thiện nhưng xét ra không được lợi ích gì! Chỉ luống công đau khổ thôi! Thực là một việc không có kết quả cho nhân sinh. Vậy từ nay trở đi cho muôn dân làm mười điều ác, các ông không được cử phạt”
Vua các nước tiếp được lá thơ ấy, lấy làm kỳ dị quá nói:
- Tờ chiếu chỉ của đại quốc vương không biết tại duyên gì bắt dân bỏ điều lành làm điều ác.
Sau các ông vua đều cho sứ thần đến hỏi nguyên ủy của bức thơ.
Khi nhà vua nghe thấy nói có tờ chiếu chỉ do chính mình hạ lệnh bắt dân bỏ thiện làm ác, ngạc nhiên nói:
- Ta tuyệt nhiên không có sắc lệnh như thế, tại sao có tờ chiếu chỉ này.
Lập tức nhà vua và các quan đại thần bản triều lên xe đi các nước, quả nhiên đã thấy nhân dân làm ác, đổi lệnh cũ, theo lệnh mới.
Ma Vương thấy nhà vua đi trên đường lớn tự hóa làm người, đứng giữa đống lửa cháy ở bên lề, kêu khóc thảm thiết, nhà vua đến tận nơi hỏi:
- Tại sao ngươi khóc?
- Tâu Bệ Hạ! Tôi lúc tiền sinh hay khuyên người tu thập thiện nên ngày nay bị quả báo thống khổ như vậy!
Nhà vua nói: - Sao lại có chuyện người tu thiện, mình phải chịu đau khổ?
Nhà vua hỏi tiếp:
- Thế! Anh khuyên người tu thập thiện; mà anh phải đau khổ, thì những người được anh khuyên tu kia có được phước lành gì không?
Đáp: - Tâu Bệ Hạ, những người đó được phước nhiều lắm! Chỉ vì dạy người tu thập thiện nên riêng mình phải chịu quả báo đau khổ, lửa đốt suốt ngày đêm như vầy.
Đây là Ma Vương muốn làm thoái tâm khuyến tu thập thiện của nhà vua, trái lại nhà vua nghe xong rất vui vẻ đáp rằng:
Vâng! Phải lắm tốt lắm! Cốt sao cho chúng sinh hết đau khổ tội lỗi, được phước báu nhiều, còn mình chịu khổ có hận chi!
Ma Vương thấy nhà vua không thoái tâm, liền ẩn hình biến mất rồi đi khắp các nước để tuyên truyền cho dân tu thập thiện. Từ đó nhân dân đều tu theo pháp thập thiện giữ gìn thân, khẩu, ý, ba nghiệp hoàn toàn, chánh pháp lan tràn khắp thiên hạ, tất cả nhân dân tòng phúc, nên đức của nhà vua mỗi ngày một lớn, vì phúc lành ấy xe kim luân và thất bảo tự nhiên hiển xuất, nhà vua bay đi giáo hóa khắp thiên hạ;
Nhưng bao giờ nhà vua cũng lấy pháp thập thiện làm đích để chỉ đạo.
Tôi đây Phật nhắc lại cho vua biết rằng:
- Đai Vương! Vua Thi Đà Ni Di thuở đó tức là Phụ vương của ta bây giờ (vua Tịnh Phạn), bà Phu nhân sanh Thái tử lúc đó chính là thân mẫu của ta ngày nay, vua Tuệ Quang dạy dân tu thập thiện là tiền thân của ta. Cũng do đời ấy ta tự tu thập thiện và khuyên dân tu thiện nên nay được phước báu nơi gan bàn chân có ánh quang minh, và ngàn hoa tươi thắm như vậy.
Khi đó vua Bình Sa tới trước lễ Phật quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng:
Kính lạy Ðức Thế Tôn! Bọn Lục Sư mê muội quá! Không biết lượng sức mình, vì lòng tham danh trục lợi, đem tâm ghen ghét, đòi thi thần thông với Ngài, chúng tự nói: Phật làm được một phần, chúng sẽ làm được hai. Sau khi bị sức thần thông của Thế Tôn làm trấn át, chúng hết thế lực tẩu thoát, cùng đường đâm đầu xuống sông tự tử, còn đồ đệ chạy tán loạn tự chúng gây nên tai nạn muôn đời, con nghĩ lũ mê cuồng ấy không biết căn duyên tại sao, xin Thế Tôn chỉ giáo?
Phật đáp: - Đại Vương! Nên biết bọn Lục Sư chẳng những ngày nay tranh lợi tranh danh với ta, mất thân mạng thế đâu! Đời quá khứ chúng đã tranh với Ta một lần, nhưng đều bị thất bại. Ta lại đoạt được cả đồ đảng của chúng nữa.
Vua Bình Sa lại bạch Phật rằng:
- Kính lạy Ðức Thế Tôn! Việc đó thế nào cúi xin chỉ giáo?
Phật dạy: - Đại vương hãy để ý nghe, trước đây đời quá khứ vô lượng vô số kiếp A Tăng Kỳ cũng Châu
Diêm Phù Đề này có một ông vua tên là Ma Ha Xa Cừu Lợi, thống trị năm trăm nước nhỏ, vua có năm trăm phu nhân nhưng chưa bà nào có con trai. Vua tự nghĩ rằng: “Tuổi ta đã cao lại không có con để nối quốc vị, một sớm băng hà lấy ai để bảo tồn chính thể của quốc gia biết giao phó cho ai? Tất nhiên trong nước có sự tranh giành tàn sát lẫn nhau nhân dân sẽ bị nguy ngập.
Nghĩ thế rồi chưa biết giải quyết ra sao? Nên lúc nào ông cũng buồn!
Vua Đế Thích trên thiên cung biết ý nghĩ của nhà vua như thế, liền từ trên trời bay xuống hóa làm một ông thầy thuốc đến vương cung xin vào yết kiến vua, và hỏi ngay ý nghĩ lo buồn của nhà vua. Nhà vua cũng đem ý nghĩ của mình như trên nói cho ông rõ.
Ông trả lời rằng:
- Xin Bệ Hạ chớ lo! Để tôi đi vào núi tuyết lấy các vị thuốc cho các phu nhân của Bệ Hạ uống thì sẽ có thai.
Nhà vua nghe nói tâm buồn đã nguôi nguôi, và bảo thầy thuốc rằng:
- Thưa Ngài nếu được như thế thì còn gì hay hơn nữa.
Thầy thuốc từ biệt lên đường vào núi, cách ít ngày lấy được rất nhiều dược thảo đem về dâng vua, bạch rằng:
Nói rồi vái chào ra về, vua hỏi:
- Thưa Ngài, thuốc này sẽ lấy bao nhiêu tiền?
Đáp: - Tâu Bệ Hạ, đây tôi xin giúp Bệ Hạ chứ không lấy tiền.
Nói xong ẩn hình biến mất, nhà vua thầm nghĩ: “Người này là thần nhân ủng hộ có lẽ hay lắm, rất có kết qủa cho ta”.
Sau khi Đế Thích về, nhà vua sai người lấy sữa nấu lẫn với thuốc, dâng bà Đệ nhất Phu nhân uống. Song bà chê bẩn và không tin, nên không chịu uống thuốc đó, các bà Tiểu Phu nhân chia nhau uống hết quả nhiên được ít lâu các bà ấy đều có thai, và đem sự kết quả uống thuốc nói cho bà lớn biết. Bà lớn có ýhối hận hỏi:
- Thuộc ấy có còn thừa chút nào không?
Các bà đáp: - Thưa bà! Hết cả!
- Vậy các được thảo có còn không?
Các bà đáp: - Thưa bà hãy còn một ít!
Bà Đại Phu nhân sai người lấy sữa nấu thuốc dùng được ít lâu thấy có thai, bà vui mừng thầm trong dạ và cũng không nói cho các bà biết.
Các bà Tiểu Phu nhân đầy tháng đều sinh con trai, nhân tướng khôi ngô tuấn tú, nhà rất sung sướng, vì các bà đã sinh được nhiều quý tử. Nhưng vua vẫn áy náy trong lòng, là vì Đại Phu nhân chưa có con!
Một thời gian sau trăng tròn nguyệt mãn, bà Đại Phu nhân sinh được cậu con trai, nhưng rất buồn thay cho bà, cậu con trai của bà xấu quá, mặt mũi xù xì hình như quỷ sứ. Buồn quá! Đặt lên là Đa La Hầu Đà (Tàu dịch “Chu Ngột"), Hoàng hậu giao cho người vú nuôi nấng ở một nơi và không cho ai biết.
Từ đấy trở đi trong nước vẫn được thanh bình, nhân dân an lạc, sau khi các Thái Tử nhà vua đều cưới vợ cho cả, duy Chu Ngột xấu quá nên nhà vua không để ý tới.
(còn tiếp)
Trích "Kinh Hiền Ngu"