Chuyển Hóa Khổ Đau thành Tình Yêu Thương và Lòng Bi Mẫn
– Một bài phỏng vấn Garchen Rinpoche
Gyurme Avertin chuyển dịch Tạng-Anh.
Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.
Với nụ cười rạng rỡ và liên tục quay kinh luân, Garchen Rinpoche[1] đã viếng thăm [trung tâm] Lerab Ling vào năm 2009 để giảng dạy trong khóa nhập thất mùa hè của Rigpa. Trong bài phỏng vấn này, Ngài nhớ lại hai mươi năm sống trong trại lao động trong thời kỳ chính trị bất ổn thời Cách mạng Văn hóa của Trung Quốc và giải thích cách thức mà trải nghiệm giúp Ngài làm sâu sắc sự hiểu về giáo lý Phật Đà.
Thưa Rinpoche, Ngài đã sống hai mươi năm của cuộc đời trong tù; thế nhưng, Ngài rõ ràng luôn ngập tràn niềm hoan hỷ và Ngài hiến dâng bản thân để đem lại lợi lạc cho chúng sinh khác. Xin Ngài chia sẻ vài lời khuyên về cách thức Ngài đã có thể vượt qua và chuyển hóa khổ đau cùng những khó khăn lớn lao mà Ngài đã gặp phải?
Nói chung, chúng ta đều đang ở trong cùng hoàn cảnh. Tất cả hữu tình chúng sinh trong tam giới của sự tồn tại đều trong tù ngục luân hồi và chúng ta đều trải qua khổ đau của luân hồi. Đức Phật nói rằng cách tốt nhất để vượt qua khổ đau là hiểu hai chân lý – chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối. Thậm chí nếu bạn không có bất kỳ phẩm tính rất đặc biệt nào, nếu bạn hiểu hai chân lý, điều đó sẽ cho phép bạn giải phóng bản thân khỏi khổ đau – thậm chí khổ đau hiện tại của bạn. Điều quan trọng là hiểu rằng khổ đau mà bạn đang trải qua là kết quả của nghiệp, những hành động trong quá khứ của bạn. Hiểu điều đó đã khiến cho khổ đau trở nên có thể chịu đựng được hơn, bởi bạn thấy rằng nó không đến từ bên ngoài. Tại sao tôi đang trải qua khổ đau? Bởi những ác hạnh mà tôi đã phạm phải trong quá khứ.
Và giống như vậy, bây giờ, tôi có tất cả những cảm xúc tiêu cực này, thứ khởi lên trong tâm tôi và khiến tôi phạm phải các ác hạnh và vì thế trong tương lai, tôi sẽ trải qua thêm nhiều khổ đau. Bởi vậy, giờ đây, bất cứ khi nào tôi trải qua khổ đau, tôi biết rằng điều đó gây ra bởi các ác hạnh mà tôi đã phạm phải trong quá khứ và điều đó cần thực sự thúc đẩy tôi làm điều gì đó, nỗ lực để tiêu trừ nguyên nhân của khổ đau thêm nữa, những cảm xúc phiền não và v.v. Khi khổ đau khởi lên – ví dụ, bạn bị bệnh – thì lập tức bạn cần nghĩ rằng, “Ồ, điều này đang tịnh hóa một vài ác nghiệp mà tôi đã tích lũy”. Đó là cách biến khổ đau thành thứ gì đó có thể chịu đựng được hơn và tích cực hơn. Nhờ sự hiểu này, khi khổ đau xảy đến, bạn có thể nghĩ rằng, “Điều này thật tốt với tôi”.
Là một hành giả chẳng có mấy kinh nghiệm, có lẽ con có thể bắt đầu áp dụng lời khuyên này cho vài khổ đau nhỏ bé, ví dụ, nếu con bị cảm lạnh hay bệnh nhẹ. Nhưng con sẽ thấy bị áp đảo nếu bị ném vào tù. Liệu Ngài có thể áp dụng điều này ngay lập tức khi Ngài thấy bản thân trong tình cảnh mà với hầu hết mọi người là không thể chịu đựng?
Như tôi đã nói trước đó, bạn cần hiểu chân lý tương đối và tuyệt đối. Hiểu chân lý tương đối tức là hiểu rằng mọi thứ khởi lên từ các nguyên nhân. Kết quả đến từ các nguyên nhân. Khổ đau mà chúng ta trải qua là kết quả của nghiệp của chúng ta; vì thế, trước tiên chúng ta cần phát triển một sự hiểu sâu sắc về quy luật của nghiệp – nhân và quả.
Hiểu chân lý tuyệt đối là thấy bản tính của tâm. Tâm trong bản tính của nó thì không có bất kỳ khổ đau nào. Khi chúng ta hiểu bản tính của tâm, chúng ta thấy rằng nó thực sự là trí tuệ và trí tuệ có thể tiêu trừ ngay cả ý nghĩ khổ đau vi tế nhất. Khi chúng ta đang an trú trong khía cạnh trí tuệ, bất cứ ý nghĩ nào khởi lên đều được giải phóng trong cõi giới trí tuệ. Trí tuệ này nghĩa là khi bạn cần nghĩ về thứ gì đó thì bạn có thể nghĩ theo cách thức rất chuẩn xác, có mọi ý nghĩ mà bạn cần và rất chính xác, rất rõ ràng. Nhưng khi bạn không cần những ý nghĩ này, bạn có thể đơn giản duy trì trong trạng thái sáng suốt, thoát khỏi những ý nghĩ khởi lên. Với sự chứng ngộ về chân lý tuyệt đối này, bạn có thể đối mặt với khổ đau và nó trở thành một kiểu trải nghiệm hoan hỷ hơn.
Điều đó thì không dễ dàng lúc bắt đầu. Bạn cần phải thực hành thiền định và đạt được vài sự ổn định. Ban đầu, khi bạn thọ nhận giáo lý và quán chiếu về chúng, bạn có thể đạt được vài sự hiểu, nhưng chỉ sự hiểu đó thì không giúp bạn giải quyết những kiểu khổ đau dữ dội hơn.
Khi tôi đến trại lao động, bằng cách áp dụng hai khía cạnh của chân lý tương đối và tuyệt đối, tôi không trải qua nó như là thứ gì đó đau đớn và không thể chịu được. Nhưng có hai người đàn ông trong khu trại của chúng tôi đã tự tử bởi họ không thể chịu đựng được. Khổ đau quá lớn và họ quyết định kết thúc cuộc đời. Nhưng chúng tôi không bao giờ nghĩ về điều đó – thực sự, chúng tôi liên tục hoan hỷ và hạnh phúc. Những người tống chúng tôi vào tù và gọi chúng tôi bằng đủ kiểu tên gọi đang băn khoăn: “Điều gì xảy ra với họ vậy? Những Lama này luôn luôn hạnh phúc”. Điều đó đến từ sự hiểu về chân lý tương đối và tuyệt đối.
Khi bạn trải qua khổ đau, điều được giảng dạy là bạn cần lập tức nghĩ về khổ đau của chúng sinh khác. Bạn nhận ra rằng: “Tôi không phải là người duy nhất. Mọi chúng sinh khác cũng đều đang đau khổ”. Khi bạn nghĩ về khổ đau của chúng sinh khác, khổ đau của bạn dường như nhỏ bé một cách kì cục khi so sánh với tất cả khổ đau trên thế gian; và sau đó, điều thường xảy ra là bạn quên hết những khổ đau của bản thân.
Thực hành vun bồi Bồ đề tâm rất quan trọng. Trước tiên, bạn nghĩ về tất cả hữu tình chúng sinh, cách thức mà họ đều đã từng là cha hay mẹ của bạn trong một đời quá khứ và lòng từ ái mà họ đã dành cho bạn. Kết quả là, bạn quyết tâm đền đáp tình yêu thương mà họ đã dành cho bạn.
Nói một cách đơn giản, chúng ta có điều được gọi là tri kiến, thiền định và hành động. Tri kiến là nhận ra rằng tất cả hữu tình chúng sinh đều đã từng là cha mẹ chúng ta lúc này hay lúc khác và rằng họ đã cực kỳ tử tế với chúng ta. Thiền định là mong muốn đền đáp lòng từ này, thực sự vun bồi một cảm giác yêu thương sâu sắc dành cho tất cả những hữu tình chúng sinh này. Và hành động là, dù làm gì, hãy chắc chắn rằng nó lợi lạc và hữu ích cho chúng sinh khác. Điểm then chốt là vun bồi tình yêu thương như vậy dành cho chúng sinh lặp đi lặp lại.
NHỮNG VỊ LAMA NÀO KHÁC ĐÃ CÙNG Ở TÙ VỚI NGÀI?
Có mười nghìn tù nhân, bao gồm khoảng bốn trăm người Tây Tạng từ nhiều vùng khác nhau, Golok, Amdo, Kham và thậm chí Lhasa. Trong số nhiều vị Lama có đạo sư vĩ đại Khenpo Munsel[2] – người chẳng hề trải qua bất kỳ kiểu khổ đau nào khi Ngài ở đó – Adeu Rinpoche[3] và Ngài Dodrupchen Rigdzin Tenpe Gyaltsen[4]. Tôi đã ở cùng phòng với Dodrupchen Rinpoche trước khi Ngài viên tịch vào năm 1961.
Làm sao mà Ngài có thể thọ nhận những giáo lý từ Khenpo Munsel trong môi trường đó?
Mọi chuyện không dễ dàng, bởi chúng tôi luôn luôn bị giám sát và chúng tôi phải lao động. Nhưng đôi lúc khi tôi ốm hay giả vờ bị ốm, Khenpo Munsel sẽ đến và chia sẻ vài lời giảng dạy, một cách bí mật. Chúng tôi không được phép có bất kỳ bản văn nào trong tù; vì thế, Ngài thường chỉ giảng dạy vài từ để tôi có thể ghi nhớ chúng.
Khenpo Munsel sống cùng với sáu vị Lama khác trong một căn phòng. Tất cả đều có những vấn đề về thân thể và không thể làm việc. Vì vậy, họ có thể ở trong phòng và không có nhiều nỗi sợ về việc bị lính gác phát hiện. Lính gác đôi khi sẽ đến kiểm tra, nhưng lúc khác thì chư vị được ở trong phòng và một chút bánh mì hay thứ gì đó sẽ được để lại cho chư vị ăn. Tôi trẻ hơn vào lúc đó, do vậy, tôi phải làm việc khoảng tám giờ mỗi ngày. Đôi lúc, khi tôi được nghỉ hay khi tôi bị ốm, tôi sẽ thọ nhận vài giáo lý ngắn gọn một cách bí mật.
Làm sao mà Ngài thực hành điều Khenpo Munsel đã dạy?
Chúng tôi thường thọ nhận những chỉ dẫn từ Ngài và sau đó thực hành chúng một cách bí mật, và tiếp đấy, chúng tôi sẽ thọ nhận thêm những chỉ dẫn. Dĩ nhiên, tôi không thể ngồi kiết già và thực hành; vì thế, tôi thực hành khi tôi đáng lẽ phải đang ngủ. Chủ nhật là ngày nghỉ và tôi thường ngồi trên giường cả ngày. Khi tôi làm việc, ăn uống hay giao tiếp với người khác, tôi luôn cố gắng duy trì sự tỉnh thức, chính niệm và cảnh giác. Nhưng khi tôi trên giường và vào những ngày Chủ nhật, tôi trì tụng những thực hành của mình. Tôi vốn đã biết cách thực hành trước khi vào tù bởi cha và chú của tôi đều là những đạo sư vĩ đại và họ dạy tôi từ khi tôi mười tuổi. Bởi vậy, trước khi tôi vào tù vào năm hai mươi tư tuổi, tôi đã có chút kiến thức về cách thức thực hành Đại Thủ Ấn (Mahamudra), Tsa-lung và v.v. Và dĩ nhiên, được gặp gỡ Khenpo Munsel là điều vô cùng lợi lạc, bởi dòng truyền thừa ân phước gia trì vĩ đại mà Ngài nắm giữ. Vì thế, tôi thực hành như vậy từ thời điểm vào tù, khi tôi hai mươi tư tuổi, cho đến khi được thả, khi tôi bốn mươi tư. Khi tôi được thả, cùng với những Lama khác, tôi đã không ngủ trong tám hay chín năm.
Ban ngày, tôi thường tiến hành các hoạt động của mình, gặp mọi người, lao động và v.v. và ban đêm, tôi chỉ thực hành, ngủ một chút rồi lại thực hành thêm.
Trong tù, Ngài chắc hẳn đã thấy rất nhiều khổ đau xung quanh. Liệu Ngài có thể giúp đỡ người khác một cách vật lý hay đó là điều gì đó mà Ngài chỉ có thể thực hành bằng tâm?
Điểm chính yếu là vun bồi thái độ yêu thương lớn lao trong tâm, bởi nếu bạn có thể làm điều đó một cách chân chính, điều đó đem lại lợi lạc to lớn cho chúng sinh khác. Tâm có thể kết nối [với nhau]. Nếu bạn thực sự có một thái độ yêu thương thì khi bạn bước vào phòng, mọi người sẽ hạnh phúc và bạn sẽ có tác động tích cực với họ. Ví dụ, khi vài người nhất định gọi điện thoại cho bạn, điều đó khiến bạn hạnh phúc, nhưng khi người khác gọi điện, nó không có tác động như vậy.
Tại sao hữu tình chúng sinh khổ đau? Họ khổ đau bởi chấp ngã. Khi bạn trao cho họ tình yêu thương, họ sẽ cảm thấy cởi mở và yêu thương hơn với bạn và cùng lúc, họ sẽ quên đi bản thân. Chấp ngã sẽ ít hơn và họ sẽ bớt đau khổ. Vì vậy, đây là cách tốt nhất để vượt qua khổ đau. Cách tốt nhất để giúp đỡ chúng sinh khác là làm lợi lạc tâm họ.
Khi bạn nghĩ về hữu tình chúng sinh, những vị đã tử tế với bạn như người mẹ từ ái, bạn quên đi bản thân. Bạn từ bỏ chấp ngã. Điều này đem lại lợi lạc cho bạn và chúng sinh khác cùng lúc. Bồ đề tâm là giáo lý đặc biệt của Đức Phật. Chúng ta gọi nó là ‘tình yêu thương lớn lao’, bởi nó là tình yêu thương dành cho tất cả hữu tình chúng sinh – ngay cả với kẻ thù. Khi bạn yêu thương chúng sinh khác, sự an lành của bản thân bạn sẽ tự nhiên được hoàn thành, bởi bạn buông bỏ nguyên nhân của khổ đau: chấp ngã. Khi bạn trao tình yêu thương của bạn cho ai đó, cái tôi sẽ không còn ở đó, chỉ còn người khác. Bằng cách yêu thương người đó, bạn làm lợi lạc anh hay cô ấy và cả chính bạn, bởi không còn chấp ngã. Vì thế, yêu thương tất cả hữu tình chúng sinh đem lại lợi lạc vô biên. Đó là tình yêu thương của Đức Phật.
Nếu bạn thực sự có thể vun bồi một thái độ yêu thương, bạn sẽ đem lại lợi lạc to lớn cho thế giới. Điều này đến từ tâm và nếu càng nhiều người phát triển kiểu thái độ đó, nó sẽ cực kỳ lợi lạc. Đó là lý do tôi luôn luôn ngạc nhiên bất khi nào tôi nghe nói rằng một người – chứ đừng nói là nhiều người – đang nhập thất, bởi chỉ một người đó thôi cũng sẽ làm lợi lạc rất nhiều hữu tình chúng sinh. Đây là giáo lý đặc biệt của Đức Phật. Bằng cách vun bồi một thái độ yêu thương theo cách này, chúng ta có thể làm lợi lạc hữu tình chúng sinh ở mức độ lớn lao.
Nếu nhiều người thêm nữa trên thế giới có thái độ yêu thương đó, thì sẽ có ít vấn đề hơn. Thay vào đó, nếu bạn có sân hận trong tim, bạn sẽ gặp phải các cuộc chiến đấu, tranh cãi và những chuyện như thế. Nếu một nhóm người có thể vun bồi thái độ yêu thương hơn, những người giận dữ sẽ nhận được tình yêu thương đó và nghĩ rằng: “Họ là bạn bè của chúng ta, chúng ta sẽ không động đến họ. Chúng ta sẽ không cãi cọ với họ, chúng ta sẽ không tranh đấu với họ. Chúng ta có thể giải quyết mà không cần tranh đấu”. Vấn đề là, ngày nay, dường như ngày càng ít người vun bồi tình yêu thương và ngày càng nhiều người vun bồi sự sân hận và đó là lý do có ngày càng nhiều vấn đề.
Ngài có cảm thấy bất kỳ sân hận hay thù ghét nào với những người giam cầm Ngài?
Ban đầu, tôi thực sự, thực sự cảm thấy tức giận với họ; nhưng Khenpo Munsel quở trách tôi nhiều lần và bảo rằng tôi không nên hành xử như thế. Tôi rất buồn bã bởi họ làm rất nhiều chuyện tồi tệ, không chỉ với tôi mà với cả những người khác. Vì vậy, khi mới vào tù, tôi thực sự, thực sự giận dữ và tôi đã cố gắng gây rối, nhưng sau đó, Khenpo Munsel bảo tôi không nên làm như thế. Và khi tôi hiểu rằng tất cả là kết quả của nghiệp, tôi không còn giận dữ nữa. Cuối cùng, những lính gác thực sự khá tốt bụng với tôi.
Xin Ngài nói đôi chút về những phẩm tính của Khenpo Munsel? Ngài có kỷ niệm đặc biệt nào về Khenpo Munsel?
Ngài luôn luôn như vậy. Ngài chẳng có chút sân hận hay tiêu cực nào. Ngài chẳng còn tâm bình phàm nữa. Từ thời điểm Ngài vào tù, nó giống như Ngài ở một mức độ khác với những người còn lại. Ngài có thể làm bất cứ điều gì Ngài muốn và những quản ngục chẳng gây rắc rối gì cho Ngài. Ngài sở hữu kiểu hiện diện như thế.
Ví dụ, có sáu vị Lama khác sống cùng phòng với Ngài và lần nọ, họ trì tụng 100.000 biến Lời Nguyện Bảy Dòng. Lính gác phát hiện ra và những Lama cực kỳ lo sợ rằng họ sẽ gặp rắc rối. Khi lính gác đi vào, không khí rất căng thẳng, nhưng ngay khi họ đến trước Khenpo Munsel, họ dường như quên mất điều muốn làm. Bất cứ khi nào họ muốn la mắng hay đánh đập, điều đó sẽ biến mất đơn giản nhờ việc đến trước Ngài.
Những người khác có thể làm điều gì đó rất nhỏ nhặt và gặp nhiều rắc rối, nhưng Ngài thì có thể làm khá nhiều điều Ngài muốn và những quản ngục cũng chẳng làm hại Ngài. Ví dụ, khi Khenpo Munsel đi tù, Ngài nói rằng Ngài không thể đi lại và khi họ thấy Ngài, họ bảo rằng, “Đúng vậy, điều đó chắc là đúng”. Bất cứ khi nào Ngài đi ra ngoài, người ta phải đỡ Ngài, hoặc Ngài sẽ đẩy bản thân bằng tay nhưng Ngài không thể đi và những lính gác chẳng bao giờ nghi ngờ. Họ tin tưởng Ngài, nhưng họ không tin ai khác. Khenpo Munsel sống trong tù và không đi lại trong hai mươi năm hay hơn. Và ngày Ngài được thả, Ngài đã đi.
Con nghĩ rằng nhiều người, nếu họ sống hai mươi năm trong tù như Ngài đã làm, sẽ thấy rằng họ đã đánh mất hai mươi năm trong đời. Ngài có nhìn nhận như vậy hay không?
Không. Đó không phải là lãng phí thời gian. Đó là một sự tịnh hóa rất nhiều nghiệp. Nhiều người chết trong những năm tháng ấy. Chúng tôi mất rất nhiều người bởi chiến tranh, nạn đói và bệnh dịch, nhưng về cơ bản, tôi đã xoay sở để sống sót qua tất cả.
Trong tù ngục, chúng tôi thực hành, vì thế, chúng tôi không lãng phí thời gian. Tất nhiên, nếu bạn không có nhiều hiểu biết về quy luật của nghiệp, nhân và quả, thì bạn có lẽ chỉ tập trung vào khổ đau và khó khăn mà bạn trải qua và khi ấy, những năm tháng này sẽ bị lãng phí. Nhưng đó không phải là trải nghiệm của tôi.
Liệu Ngài có bất kỳ lời khuyên chân thành nào dành cho những hành giả về cách mà họ có thể chuyển hóa khổ đau và đối mặt với các khó khăn? Đó có phải là phát triển thái độ yêu thương với chúng sinh khác mà Ngài đã miêu tả trước đó?
Bạn cần phát triển thái độ yêu thương này và cũng cần thực hành Tonglen, trao hạnh phúc và an lành của bản thân cho chúng sinh khác và nhận lấy khổ đau của họ. Nếu bạn thực sự có thái độ yêu thương, điều đầu tiên bạn làm là nhận lấy khổ đau của chúng sinh khác. Khi thấy ai đó mà bạn yêu thương hay ai đó mà bạn biết đang đau khổ, lập tức, bạn nhận lấy khổ đau của họ và bạn trao yêu thương và hạnh phúc cho họ.
Đó là ý nghĩa của yêu thương ở mức độ tâm linh – mức độ Giáo Pháp, bạn có thể nói vậy. Khi bạn yêu thương ai đó theo cách thức bình thường, bạn yêu họ chừng nào họ yêu bạn và tốt bụng với bạn. Và ngày mà người đó không còn yêu bạn nữa, bạn ngừng yêu thương họ và không trao tình yêu thương của bạn cho họ. Đó là cách mà mọi chuyện thường xảy ra. Trong khi kiểu yêu thương theo Giáo Pháp là trao tình yêu thương, hạnh phúc và an lành và nhận lấy khổ đau của chúng sinh khác – bất kể thế nào – dù cho người khác làm điều tồi tệ nhất có thể với bạn. Bạn vẫn trao đi.
Nguồn Anh ngữ:
https://www.rigpawiki.org/index.php?title=Transforming_Suffering_into_Love_and_Compassion%E2%80%94An_Interview_with_Garchen_Rinpoche.
Nguồn bài viết: thuvienhoasen.org
________________________________________
[1] Theo Rigpawiki, Garchen Rinpoche – Konchog Gyaltsen – vị Garchen Rinpoche thứ 8 (sinh năm 1936) là một đạo sư Drikung Kagyu, người nổi tiếng trong thế kỷ Mười ba là thành tựu giả Gar Chodingpa, một tâm tử của Tổ Kyobpa Jigten Sumgon, vị sáng lập truyền thừa Drikung Kagyu của Phật giáo Tây Tạng. Ở Ấn Độ cổ xưa, Ngài đã tái sinh thành đại thành tựu giả Thánh Thiên (Aryadeva). Trong thế kỷ Bảy, Ngài nổi danh là Lonpo Gar, vị thượng thư của Vua Pháp Songtsen Gampo của Tây Tạng.
[2] Theo Rigpawiki, Khenpo Munsel (1916-1993) – một đệ tử của Khenpo Ngawang Palzang [tức Khenpo Ngakchung], Ngài bị [chính quyền] Trung Hoa giam giữ trong nhiều năm; trong khoảng thời gian ấy, Ngài đã ban những giáo lý Đại Viên Mãn Dzogchen, chẳng hạn Yeshe Lama và Choying Dzod, cho nhiều vị Lama khác trong tù, bao gồm Adeu Rinpoche và Garchen Rinpoche.
[3] Theo Rigpawiki, Trulshik Adeu Rinpoche, cũng được biết đến là Druprik Khyuchok hay Drupchok Rinpoche (1931-2007) là một đạo sư Drukpa Kagyu quan trọng từ Tu viện Tsechu, Nangchen. Giống như Tulku Urgyen Rinpoche, Ngài là đệ tử của Đức Samten Gyatso (1881-1945/6). Ngài là vị thầy chính yếu của Tsoknyi Rinpoche.
[4] Theo Rigpawiki, Dodrupchen Rigdzin Tenpe Gyaltsen hay Dodrupchen Tulku Rigdzin Jalu Dorje (1927-1961) được Amdo Geshe công nhận là một Tulku của Đức Dodrupchen thứ Ba. Có hai hóa thân chính yếu; vị còn lại – Ngài Thubten Trinle Palzang (sinh năm 1927) hiện đang sống ở Gangtok, Sikkim, Ấn Độ.