CHƯƠNG II. CÁC THỰC HÀNH CHUẨN BỊ
Các thực hành chuẩn bị thông thường
Những thực hành này được chia làm bốn phần: () các giáo lý về sự quy y Tam Bảo cứu ta thoát khỏi con đường lầm lỗi; () các giáo lý về thiền định Vajrasattva và sự trì tụng thần chú âm, quét sạch những chướng ngại trên con đường; () các giáo lý liên quan tới mạn đà la, làm viên mãn các sự tích tập của con đường; và () các giáo lý về sự thực hành thực sự pháp Guru yoga, đem lại những sự gia hộ.
QUY Y
Trước tiên, ngồi thoải mái trong tư thế tập trung bảy điểm, bạn phải thiền định về sự vô thường của mọi tạo vật. Hãy thiền định theo những lời dạy này của Đức Phật:
Ai biết được mình có chết ngày mai?
Từ giờ trở đi, hãy nỗ lực thực hành.
Thần chết – nỗi sợ hãi khủng khiếp –
Không phải là bằng hữu của con.
Suy niệm về sự Hi hữu có sự Thuận lợi và May mắn
Đạo sư Tịch Thiên (Shantideva) nói:
Rất khó tìm được một thân người quý báu, cũng như sự thuân lợi và may mắn. Những kết quả này của điều tốt lành nhất thời và bền vững có thể được đạt tới. Nếu ta không sử dụng sự thuận lợi và may mắn của đời này thì làm thế nào các cơ hội tốt đẹp có thể xảy ra trong tương lai?
Ta phải thiền định về điều này.
Suy niệm về những Khiếm khuyết của Luân hồi Sinh tử
Ta phải thiền định về luân hồi sinh tử là không có bản chất, theo những lời dạy sau của Đức Phật:
Chúng sinh trong địa ngục bị lửa nóng hành hạ,
Các ngạ quỷ bị sự đói khát hành hạ;
Các súc sinh bị việc ăn thịt lẫn nhau hành hạ,
Con người bị sự bất mãn hành hạ;
Các vị trời bị sự bất giác hành hạ,
Các bán thần bị sự chiến đấu và tranh chấp hành hạ.
Trong luân hồi sinh tử không có hạnh phúc tuyệt đối
Không một giọt, một điểm bằng đầu kim cũng không.
Suy niệm về những Lợi lạc của Giải thoát
Đức Long Thọ Bồ tát nói:
Ba phương diện của thân,
Bốn phương diện của ngữ,
Ba phương diện của tâm;
Đây là con đường:
Không uống rượu, mưu sinh đúng đắn,
Không làm hại ai, bố thí một cách trân trọng,
Kính ngưỡng bậc tôn quý, và xử sự với tất cả bằng lòng từ ái thiện tâm.
Thực hành những điều này sẽ giải thoát bạn khỏi các trạng thái bất hạnh và đem lại những trạng thái hạnh phúc.
Nếu bạn đã thực hành tốt đẹp các hệ thống của con người,
Thì cảnh giới của chư Thiên không còn xa.
Nếu bạn leo các bậc thang của chư Thiên và loài người, bạn tiến gần tới sự giải thoát.
Ta thiền định về đức hạnh. Ta phát khởi một ước muốn đạt được những lợi lạc của sự giải thoát. Ta phát sinh nỗi sợ hãi những khiếm khuyết của luân hồi sinh tử. Để giải thoát khỏi nỗi khổ của luân hồi sinh tử và đạt được những lợi lạc của sự giải thoát, ta phải phát tâm hướng tới sự quy y Tam Bảo.
Pháp Vương Jigten Sumgön nói: “Ta phải hướng tới sự quy y nhờ ba điểm đặc trưng – các đặc trưng của sự quy y, của tâm, và của thời gian.” Đặc trưng của sự quy y bao gồm Đạo sư, Bổn Tôn, Tam Bảo, và các Daka (dpa’ bo, Không hành nam), Dakini (mkha’ ‘gro ma, không hành nữ), và các Hộ Pháp. Đặc trưng của tâm là phát khởi tâm làm lợi lạc cho tất cả chúng sinh. Đặc trưng của thời gian là từ bây giờ cho tới khi đạt được Giác ngộ ta hướng tới sự quy y.
Hãy quán tưởng trong không gian trước mặt bạn các đối tượng của sự quy y ngự trên một Pháp tòa tuyệt hảo. Hãy thực hiện bảy nhánh cúng dường. Nó được diễn tả như sau:
Cầu mong Đạo sư dẫn dắt tất cả chúng sinh đầy khắp không gian, cả con lẫn những người khác – tất cả các bà mẹ tốt lành – đến sự giải thoát. Cầu mong Bổn Tôn ban những gia hộ cho tâm chúng con. Cầu mong Chư Phật ban các giáo lý. Cầu mong Pháp trở thành con đường. Cầu mong các thành viên của Tăng đoàn trở thành bằng hữu của chúng con. Cầu mong các Daka và Dakini đạt được các thành tựu. Cầu mong các Hộ Pháp điều phục được các chướng ngại.
Hãy lập lại những lời này và suy tưởng về chúng. Sau đó tiến hành sự quy y và nghĩ:
Từ bây giờ cho tới khi con đạt được cốt tủy của sự Giác ngộ,
Con quy y cội gốc vinh quang và các Lạt Ma dòng truyền thừa, các hiện thân của trí tuệ, lòng bi mẫn, và năng lực.
Con quy y tập hội các Bổn Tôn.
Con quy y Chư Phật tôn quý khắp mười phương.
Con quy y Giáo Pháp tuyệt hảo khắp mười phương.
Con quy y Tăng đoàn siêu việt khắp mười phương.
Con quy y các Daka, Dakini và các Hộ Pháp, những bậc có đôi mắt trí tuệ và đôi chân của năng lực phi thường.
Hãy quy y, suy tưởng về những phẩm tính tốt đẹp của các đối tượng quy y. Cầu nguyện cho sự thành tựu các mục đích của bạn và suy nghĩ:
Cầu mong ý nghĩa của sự vô thường phát khởi trong tâm con. Cầu mong các điều kiện (duyên) tiêu cực trở thành tích cực. Cầu mong nhờ sự chứng ngộ mà con được giải thoát. Cầu mong lòng bi mẫn làm chín mùi tâm thức những người khác. Xin gia hộ cho con để lòng sùng mộ Đạo sư của con được kiên cố và con có thể duy trì hứa nguyện. Xin gia hộ cho con để con trở nên thiện xảo trong phương pháp duyên-sinh. Xin gia hộ cho con để mọi tương quan của con có thể có ý nghĩa. Xin gia hộ cho con để con có thể phát khởi trong tâm sự kiên cố thiền định của các giai đoạn phát triển và thành tựu. Xin làm cho sự chứng ngộ tối thượng phát khởi trong tâm con.
Sau đó, hãy để các đối tượng quy y tan hòa vào chính bạn. An trụ tâm bạn trong sự tĩnh lặng của trạng thái Mahamudra (Đại Ấn).
Sau đó hãy suy tưởng:
Cầu mong tất cả chúng sinh đạt được Phật quả. Để an lập tất cả chúng sinh trong Phật quả, tôi sẽ thực hành trì tụng và thiền định về Đức Vajrasattva.
II. THIỀN ĐỊNH VAJRASATTVA
Hãy quán tưởng trên đỉnh đầu bạn một bông sen, trên đó có một đĩa mặt trăng tròn; chính giữa đĩa là một vajra (chày kim cương) màu xanh dương, trong đó có một chữ hūṃ (ཧཱུྃ). Sau đó chữ hūṃ hoàn toàn biến thành Đức Vajrasattva, thân ngài có màu trắng như ánh sáng mặt trời phản chiếu trên đỉnh núi tuyết. Đức Vajrasattva trong tư thế ngồi bán già, các ngón chân phải của ngài ở trên đỉnh đầu bạn. Bàn tay phải ngài đặt nơi tim, cầm một cái chày; bàn tay trái ở eo lưng, cầm một cái chuông. Ngài trang điểm nhiều loại châu báu. Chữ hūṃ ở trung tâm mặt trăng nơi tim Đức Vajrasattva, và chung quanh nó là thần chú âm. Từ chữ hūṃ, ánh sáng chiếu ra và tỏa khắp không gian. Ánh sáng này tẩy trừ các che chướng của tất cả chúng sinh và sau đó lan rộng tới các cõi Phật trong hình thức các vật cúng dường.
Rồi từ tim của chư Phật và Bồ tát, một dòng cam lồ - là trí tuệ và lòng bi mẫn - rút vào tim của bạn. Dòng cam lồ xuất phát từ các ngài đi tới Đức Phật Vajrasattva và đi vào thân Ngài; sau đó từ ngón chân phải của ngài nó chảy vào thân bạn qua đỉnh đầu. Như thế bạn được tẩy sạch những đống lỗi lầm, những tà hạnh, và những che chướng đã được tích tập từ vô thủy. Dòng cam lồ ngập đầy toàn thân bạn từ chân đi lên.
Sau đó hãy thiền định rằng thân bạn biến thành thân tướng Đức Vajrasattva. Hãy quan sát thần chú âm bao quanh chữ hūṃ nơi tim Đức Vajrasattva, Ngài vẫn ngồi trên đỉnh đầu bạn. Rồi lập lại thần chú âm:
Om vazra satvasamaya manupalaya vazrasatvatenopa tishtadidhomebhawa sutokhyomebhawa supokhyomebhawa anuraktomebhawa sarva siddhim meprayatsa sarvakarma sutsame tsittan shriyakuruhung ha ha ha ha ho bhagawan sarvatathagata vazramame muntsa vazribhawa mahasamayasatva āḥ (ཨཱཿ):
(OM Vajrasattva, xin gia hộ cho con. Cầu mong Ngài hài lòng về con; cầu mong Ngài hài lòng lâu dài. Cầu mong Ngài ban cho con mọi thành tựu thực sự. Cầu mong tâm con được kiên cố trong mọi hoạt động. Hūṃ ha ha ha ha hoh tất cả chư Như Lai linh thánh, cầu mong con hoàn toàn được giải thoát trong kim cương. Xin ban cho con tâm kim cương thực sự, hiện thể thệ nguyện vĩ đại āḥ hūṃ.)
Rồi suy tưởng:
Bởi vô minh, con từ bỏ và phủ nhận các thệ nguyện của con. Xin che chở con, hỡi Pháp Vương của các Đạo Sư. Ngài là bậc nắm giữ kim cương chính yếu (Kim Cương Trì). Ngài là hiện thân của lòng bi mẫn. Pháp Vương của chúng sinh, xin che chở con.
Hãy suy tưởng rằng sau đó Đức Thế Tôn nói: “Con được giải thoát khỏi các che chướng.” Bạn nên suy tưởng rằng sau khi đã chấp nhận lời cầu nguyện của bạn, Đức Vajrasattva tan hòa vào bạn. Rồi bạn an trụ tâm trong ý nghĩa của Vajrasattva, sự hợp nhất của sắc tướng và tánh Không.
III. MẠN ĐÀ LA, ĐỂ THÀNH TỰU CÁC SỰ TÍCH TẬP
Tiết đoạn này có hai phần, thiết lập mạn đà la và cúng dường mạn đà la.
Thiết lập Mạn đà la
Nếu có thể, bạn làm mạn đà la bằng các châu báu. Nếu không thể được thì làm bằng đất sét, gỗ, hay đá. Nếu làm bằng các châu báu thì ít nhất mạn đà la phải cao khoảng cm. Nếu dùng các vật liệu khác, nó không thể thấp hơn khoảng cm. Dù được làm bằng gì, chất liệu và hình dạng của mạn đà la phải toàn hảo. Tại sao thế? Đó là để ta có thể sinh vào một cõi thanh tịnh.
Cầm mạn đà la trong bàn tay trái. Trong bàn tay phải, bạn cầm một vật quý và lau mạn đà la bằng tay phải. Suy tưởng rằng giống như mạn đà la được sạch bụi, tâm bạn cũng thoát khỏi nghiệp, các phiền não chướng, và các che chướng đối với sự toàn giác (sở tri chướng).
Ở giữa mạn đà la, bạn đặt một nhúm gạo. Sau đó bạn quán tưởng rằng trên một tấm nệm có hình dạng toàn hảo là thân tướng của Đạo Sư, Đức Vajradhara, hiện thân của tất cả Chư Phật trong hình tướng của Đạo Sư, có tập hội các bậc tôn quý trong dòng truyền thừa vây quanh. Trước mặt Đức Vajradhara trên một tấm nệm toàn hảo là tập hội các Bổn Tôn. Bên phải Đức Vajradhara là Tăng đoàn và các Đại Bồ tát. Phía sau Ngài là Giáo Pháp quý báu. Ở giữa là các Daka, Dakini và các Hộ Pháp.
Trong Kinh Định Vương có viết:
Người mà dù đang đi hay ở một chỗ,
Nhớ tưởng vị vua của các hiền giả cao cả –
Chư Phật sẽ luôn ở lại với người ấy.
Một người như thế sẽ đạt được Phật quả.
Bạn phải thiền định như thể toàn thể tập hội các hiện thể này thực sự hiện diện.
Cúng dường Mạn đà la
Nếu có một mạn đà la thứ hai, hãy đặt nó trên bàn thờ. Nếu không có thì bắt đầu bằng việc quán tưởng các hiện thể tụ hội trước mặt bạn. Sau đó, lau sạch mạn đà la. Ở trung tâm, bạn đặt núi Tu Di; ở phương đông, đặt cõi Videha (Đông Thắng Thần Châu); ở phương nam, đặt cõi Jambudvipa (Nam Thiệm Bộ Châu, Diêm Phù Đề, trái đất chúng ta); ở phương tây đặt Godaniya (Tây Ngưu Hóa Châu); ở phương bắc, đặt cõi Kuru (Bắc Cu Lô Châu). Bên trái núi Tu Di, đặt mặt trời; và bên phải, đặt mặt trăng. Giữa núi Tu Di chất đầy của cải của các vị Trời và loài người. Rồi nói:
Mặt đất được tẩm hương và rải hoa. Nó được trang hoàng bằng núi Tu Di, bốn châu lục, mặt trời và mặt trăng. Nghĩ tưởng đây là một cõi Phật, con cúng dường nó. Cầu mong tất cả chúng sinh an hưởng các cảnh giới thanh tịnh.
Guru idam ratna mandalakam niryātayāmi. Với mạn đà la này, con cúng dường Guru Bổn Tôn thân thể con, tài sản, và các cội gốc đức hạnh. Khi chấp nhận những món cúng dường này, nhờ lòng đại bi của Ngài, xin cho con phát khởi chứng ngộ siêu việt.
Với mạn đà la này, con cúng dường Tam Bảo thân thể con, tài sản, và các cội gốc đức hạnh. Khi chấp nhận những món cúng dường này, xin cho con phát khởi chứng ngộ siêu việt.
Với mạn đà la này, con cúng dường các Daka và Dakini thân con, tài sản, và các cội gốc đức hạnh. Khi chấp nhận những món cúng dường này, xin cho con phát khởi chứng ngộ siêu việt.
Hãy thỉnh cầu nhiều lần. Mạn đà la này rất cần thiết để thành tựu các tích tập bi mẫn và trí tuệ. Đức Phật nói:
Trừ phi con thành tựu các cội gốc đức hạnh,
Con sẽ không đạt được (ý nghĩa của) tánh Không tối hậu.
Sau đó, khi đã tan hòa tập hội (các hiện thể) vào bạn, hãy an trụ tâm bạn trong ý nghĩa của sự bất nhị sâu xa.
IV. GURU YOGA
Có một phương pháp tu tập pháp Guru yoga được gọi là “trong cách thế của Pháp vương của dòng truyền thừa,” trong đó Đạo sư ở trên đỉnh đầu ta. Nhưng ở đây, trong thực hành Guru yoga này, Đạo sư được quán tưởng trước mặt ta. Khi nhận bốn quán đảnh, hãy quán tưởng như sau:
Trong không gian trước mặt bạn, một Pháp tòa quý báu, rộng và rất lớn, được tám con sư tử nâng đỡ. Trên Pháp tòa có một chữ pam, từ đó xuất hiện một hoa sen. Trên hoa sen là chữ āḥ, nó trở thành một mặt trăng. Trên mặt trăng là chữ ram, nó biến thành mặt trời. Trên tòa mặt trời là Đạo sư gốc của bạn, ngài có bản tánh tốt lành, trong hình tướng của Đức Phật Vajradhara (Kim Cương Trì), thân màu xanh dương, một mặt, hai bàn tay. Trong bàn tay phải Ngài cầm một chày kim cương (vajra) năm chấu; bàn tay trái Ngài cầm một cái chuông có tay cầm là chày năm chấu. Chày và chuông được bắt chéo nơi tim. Tóc Ngài bện lại thành một búi trên đỉnh đầu, Ngài đội một vương miện bằng xương và những châu báu, các bông tai và ba chuỗi hạt – một sợi ngắn, một dài tới ngực, một dài tới rốn. Ngài cũng đeo một dây đai, một vòng xuyến, các vật trang sức mắt cá chân, và y phục bằng lụa quý giá. Ngài có tướng chính và tướng phụ của một vị Phật.
Đức Vajradhara đang ngồi trong tư thế kim cương; trên đầu Ngài là các Đạo sư dòng truyền thừa, vị này trên vị kia trong một hàng liên tiếp cho tới trên cùng là Đức Phật Vajradhara thực sự. Hãy hướng tư tưởng bạn đến Đức Vajradhara được quán tưởng, và nghĩ:
Đối với Đạo Sư quý báu, hiện thân của Bốn Phật Thân, con cúng dường tất cả mọi sự có thể được; con cúng dường thân, ngữ, và tâm con, cũng như ba loại cúng dường, ngoài, trong, và bí mật. Vật cúng dường, người cúng dường, và hành động cúng dường – cả ba thứ này cùng một bản tánh. Con cúng dường những món này, không có sự tạo tác, như nhất vị bình đẳng vĩ đại. Xin ban cho con sự thành tựu thực sự mà không cần dụng công. Không chút mong cầu, con cúng dường các món cúng dường bên ngoài, bên trong và bí mật, cũng như thân thể, tài sản, và các tích tập đức hạnh của riêng con.
Đọc thần chú-cầu nguyện sau đây càng nhiều lần càng tốt:
Con khẩn cầu Đạo sư Vinh quang, hiện thân của Bốn Phật Thân, vương miện của toàn thể dòng Dhagpo Kagyu, bậc lãnh đạo chúng sinh, Đạo sư của con đường tối hậu, thủ hộ của lòng bi mẫn, nhiếp chính của Đức Phật, của thiện tâm vô song, Đạo sư tối thượng; Đức Phật Vajradhara, xin thương tưởng Đức Drikungpa vĩ đại. Con khẩn cầu ngài, xin đoái hoài tới con với lòng bi mẫn. Xin trao truyền cho con các ân phước. Giờ đây, xin ban cho con hai sự thành tựu thực sự. Xin cho phép kiến lập hai mục đích mà không cần nỗ lực. Xin ngài ban cho trái quả.
Khi trì tụng theo cách này, hãy quán tưởng Đức Vajradhara thực sự tan hòa thành Đạo sư ở phía dưới Ngài; mỗi Pháp vương dòng truyền thừa tan hòa thành vị ở dưới, cho tới khi tất cả tan hòa thành Đạo sư gốc của bạn. Sau đó hãy nhận lãnh bốn quán đảnh, trong khi tiếp tục lập lại thần chú cầu nguyện.
Bốn quán đảnh
i. Quán đảnh thứ nhất
Hãy quán tưởng Đạo Sư Vinh quang, Đức Vajradhara, hiện thân của mọi phẩm tính tốt lành, đi vào lỗ mở ở giữa đỉnh đầu bạn và cầu nguyện: “Xin tịnh hóa các khuynh hướng của trạng thái tỉnh thức của con bằng nước của quán đảnh tịnh bình. Cầu mong những trạng thái thức của con được tịnh hóa.”
Nhờ sự khẩn cầu này, ánh sáng trắng phát ra từ trán Đạo Sư và tan hòa vào trán bạn, tịnh hóa các che chướng của trạng thái thức của bạn. Bạn đạt được quán đảnh tịnh bình, cũng như Hóa Thân của sự hiển lộ sắc thân kim cương.
ii. Quán đảnh thứ hai
Thân Hỷ Lạc Viên mãn (Báo Thân) sở hữu ngữ kim cương và vì thế có thể nói bằng ngôn ngữ của tất cả chúng sinh. Hãy quán tưởng Báo Thân đi vào trung tâm của ngữ nơi cổ họng bạn và nghĩ: “Cầu mong nhiên liệu của các mộng tưởng bị ngọn lửa quán đảnh bí mật của hỷ lạc tối hậu thiêu rụi.”
Nhờ năng lực của lời cầu nguyện này, ánh sáng đỏ phát ra từ cổ họng của Đạo Sư tôn quý và tan hòa vào cổ họng bạn, tịnh hóa các che chướng trong trạng thái mộng của bạn. Bạn đạt được quán đảnh bí mật cũng như Báo Thân, là ngữ kim cương.
iii. Quán đảnh thứ ba
Hãy quán tưởng Guru, Dharmakāya (Pháp Thân) vô niệm, đi vào trung tâm của tâm bạn nơi trái tim và nghĩ: “Cầu mong bóng tối dày đặc của giấc ngủ được trí tuệ cao quý đánh thức.” Nhờ năng lực của lời cầu nguyện này, ánh sáng xanh dương phát ra từ trái tim của Đạo Sư tôn quý và tan hòa vào trái tim bạn, tịnh hóa các che chướng trong trạng thái ngủ sâu của bạn. Bạn đạt được quán đảnh trí tuệ cao quý và Pháp Thân, là tâm kim cương.
iv. Quán đảnh thứ tư
Hãy quán tưởng thủ hộ của chúng sinh, Thân Bẩm sinh (Sahajakāya), đi vào trung tâm của thức trí tuệ nơi rốn của bạn và nghĩ: “Cầu mong con đạt được hỉ lạc bất biến nhờ sự ban tặng quán đảnh trí tuệ vĩ đại này.”
Nhờ năng lực của lời cầu nguyện này, ánh sáng vàng phát ra từ rốn của Đạo Sư quý báu và tan hòa vào rốn bạn, tịnh hóa bạn về các che chướng của trạng thái chuyển hóa. Bạn đạt được quán đảnh thứ tư và Thân Bẩm sinh, là kim cương trí tuệ. Rồi suy nghĩ:
Cầu mong thân, ngữ, tâm và trí tuệ của con và tất cả chúng sinh đầy khắp không gian trở nên bình đẳng với trạng thái kim cương bốn nhánh của Ngài. Xin cho con đạt được hỷ lạc tối thượng.
Nhờ năng lực của lời cầu nguyện này, Đạo Sư quý báu tan ra thành một tia sáng và tan hòa vào bạn. Hãy nghĩ tưởng rằng thân, ngữ, và tâm của Đạo Sư và thân, ngữ và tâm của chính bạn không còn phân biệt được nữa. Sau đó, an trụ tâm bạn trong sự bất nhị.
Đức Gampopa tôn quý nói:
Chúng ta thuộc dòng truyền thừa gia hộ;
Nếu không nhận được sự gia hộ của Đạo Sư,
Thì không thể chứng ngộ ý nghĩa của Mahamudra (Đại Ấn).
Nhưng với những ai có sự gia hộ của Đạo Sư,
Chứng ngộ đó không khó khăn gì.
Để thực hành Guru yoga, tâm bạn phải hết sức mạnh mẽ và kiên cố. Khi đang thực hành pháp này, nếu lòng sùng mộ của bạn có một giới hạn thì sẽ không có kết quả. Để thực hành Guru yoga chân thực, bạn phải suy tưởng từ tận đáy lòng về thiện tâm của các Đạo sư gốc, Đạo sư dòng truyền thừa và về các phẩm tính tốt đẹp của thân, ngữ, và tâm của các ngài. Lòng sùng mộ này mãnh liệt đến nỗi tóc bạn dựng đứng lên, những giọt lệ trào ra từ đôi mắt, và giọng nói bạn nghẹn ngào. Trong tâm bạn chỉ có độc nhất Đạo sư; tâm bạn bị Đạo sư cuốn hút; rồi bạn muốn được cầu nguyện ngài ngày và đêm. Bạn phải nỗ lực cho tới khi các kinh nghiệm nồng cháy về pháp Guru yoga chân thực xuất hiện.
Các thực hành chuẩn bị đặc biệt
Các thực hành này là để nuôi dưỡng lòng từ ái, bi mẫn và Bồ đề tâm. Trong Bài Ca Chứng ngộ của Con đường Năm Nhánh, Đức Tôn Quý Jigten Sumgön đã nói:
Nếu chúng ta phi con thần mã của lòng từ ái và bi mẫn
Vì lợi lạc của bản thân chứ không vì người khác,
Ta sẽ không nhận được sự tán thán của các vị trời và người.
Vì thế, hãy chú tâm vào các bước chuẩn bị.
I. LÒNG TỪ ÁI
Nuôi dưỡng lòng từ ái (thiện tâm) có thể được suy xét từ vài quan điểm: nó được phát triển thế nào; thực thể hay chân tánh của nó; sự tăng trưởng lòng từ ái; các hoạt động của lòng từ; sự sai lầm khi sao nhãng nuôi dưỡng lòng từ; và lợi lạc của việc nuôi dưỡng lòng từ – các kết quả đạt được.
Phát triển lòng từ ái
Các phương pháp phát triển lòng từ ái là để thấu hiểu thiện tâm của người khác và đền đáp lòng tốt của họ. Ta nên suy xét thiện tâm của những bậc cha mẹ là những người đã khiến cho ta có cuộc đời này, với thân thể và tâm thức này; ta cần suy xét việc vị Tu viện trưởng và vị Thầy đã thiết lập các quy củ thanh tịnh của giới luật và vị Thầy chỉ rõ điều gì phải tuân theo và điều gì phải từ bỏ. Đặc biệt là ta nên suy xét về lòng tốt vĩ đại của bà mẹ của ta. Tại sao thế? Bởi vì các bà mẹ cho ta vô vàn thực phẩm với số lượng to lớn như núi Tu Di; các bà chăm chút áo quần cho con cái, như thể chúng được che phủ trong một đám mây; sữa mà các bà mẹ cho con uống thì vô hạn như đại dương. Hãy suy tưởng như thế để nuôi dưỡng lòng từ ái.
Thực thể hay chân tánh của lòng từ ái
Có nói rằng: “Khi ta thấy một đứa trẻ thật đáng yêu, lòng từ phát khởi; khi ta tới trước một người cùi, lòng bi được phát khởi; khi ta gặp một người bạn, hỉ lạc được phát khởi. Trong giấc ngủ, sự xả bỏ được phát khởi.” Lòng từ ái tự phát khởi và sức mạnh của nó mang lại cho ta một nguyện ước không bao giờ bị xa lìa đối tượng lòng từ ái của ta.
Tăng trưởng lòng từ ái
Việc tăng trưởng lòng từ ái bao gồm hai thực hành: thiền định về bà mẹ của riêng ta và thiền định được trải rộng đến tất cả chúng sinh. Khi thiền định về bà mẹ của riêng bạn, hãy tưởng nhớ đến lòng tốt của bà và nghĩ: “Cầu mong mẹ được hạnh phúc.”
Đây không phải là thiền định mà đúng hơn là sự làm quen hay quen thuộc. Hãy thực hành liên tục theo cách này. Nhờ năng lực của sự quen thuộc như thế, thực thể của lòng từ ái sẽ ló rạng.
Sau đó, để làm tăng trưởng lòng từ ấy, hãy suy tưởng rằng tất cả chúng sinh đều là cha mẹ của ta và họ đã hết sức tốt lành. Trong một bộ kinh có nói: “Khắp không gian không đâu có một chúng sinh không từng là cha mẹ tôi.” Hãy thiền định về tất cả chúng sinh giống như bạn đã thiền định về bà mẹ của riêng bạn.
Thiền định về tất cả chúng sinh theo cách này, bạn sẽ phát khởi lòng từ. Nếu lòng từ không được phát triển, hãy thiền định trở lại về bà mẹ của riêng bạn; phát khởi trở lại lòng từ đối với mẹ bạn và sau đó, để tăng trưởng nó, hãy hướng lòng từ đến tất cả chúng sinh ở khắp mọi phương – đông, tây, nam và bắc.
Các phẩm tính của lòng từ
Lòng Từ và Bi quét sạch mọi điều kiện đối nghịch (nghịch duyên) của đức hạnh. Ma quân xấu ác nói với Đức Phật: “Ngài chiến thắng không phải nhờ gươm đao, chiến mã, mà bằng vũ khí của lòng từ và bi.” Các hoạt động của lòng từ đem lại điều tốt lành và hạnh phúc, như đã được minh họa bằng cuộc đời của Vua Champetop.
Lỗi lầm của việc sao nhãng nuôi dưỡng lòng từ
Đức Milarepa đã nói:
Nếu không nuôi dưỡng lòng từ và bi, ta rơi vào thừa thấp. Hãy nỗ lực thực hành Bồ Đề tâm được đặt nền trên lòng từ và bi.
Những lợi lạc của việc nuôi dưỡng lòng từ
Ngài Long Thọ Bồ tát nói về những người thực hành lòng từ:
Mặc dù không được giải thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử,
Họ đạt được tám phẩm tính của lòng từ;
Họ nhận được lòng từ ái của các vị trời và loài người;
Họ được che chở; tâm họ vui sướng;
Họ không bị chất độc hay các vũ khí hãm hại;
Họ thành tựu mục đích mà không cần nỗ lực;
Và được tái sinh trong cõi giới Phạm Thiên.
II. LÒNG BI MẪN:
Đối tượng của sự quán sát lòng bi mẫn
Cũng như việc phát triển lòng từ, để phát triển lòng bi mẫn thì đối tượng của sự quán sát là người mẹ. Ước muốn giải thoát tất cả các bà mẹ khỏi nỗi đau khổ chính là cốt tủy của lòng bi. Ngài Atisha đã nói trong tác phẩm Luận thuyết về Các Đấng Vĩ đại của ngài:
Nhờ trí tuệ đã chứng ngộ, những người ước muốn hoàn toàn giải thoát chúng sinh khỏi đau khổ - những người ấy là các Đấng Vĩ đại.
Năng lực của lòng bi kích động trong tim ta ước muốn giải thoát đau khổ cho mọi chúng sinh, giống như ta ước muốn tự giải thoát mình khỏi đau khổ.
Tăng trưởng lòng bi mẫn
Thật khó cảm nhận lòng bi mẫn đối với người đã làm hại ta. Nếu chúng ta muốn làm hại lại một người như thế thì ta không thể cảm thấy bi mẫn. Để tăng trưởng lòng bi, ta nên luân phiên thay đổi sự thiền định, trước tiên phát triển lòng bi đến một người bạn và sau đó hướng đến một kẻ thù, cho tới khi tâm ta được tịnh hóa và lòng bi được toàn thiện.
Các phẩm tính của lòng bi mẫn
Kinh Pundarika Karuna (Kinh Bi Hoa) nói:
Có một phẩm tính của các Bồ tát đem lại cho người sở hữu nó mọi phẩm tính của các Bồ tát. Phẩm tính đó là gì? Đó là lòng đại bi.
Kết quả Thành tựu
Đức Phagmo Drupa nói:
Khi dòng suối từ ái chảy đều,
Cội gốc của lòng bi được thấm ướt.
Khi cây Bồ đề tâm được hoàn toàn phát triển,
Trái quả chứng ngộ chín mùi
Và đóa hoa đệ thập địa nở rộ.
Cầu mong hai mục đích được thành tựu.
Sự nuôi dưỡng lòng từ và bi khiến người ta đạt được hai điều kiện của trạng thái cao (của các vị trời và loài người) nhưng không đạt được điều kiện của sự tốt lành tuyệt đối (sự giải thoát).
III. BỒ ĐỀ TÂM
Đức Gampopa nói: “Trạng thái cao trong luân hồi sinh tử là hạnh phúc tạm thời; điều tốt lành tuyệt đối là sự giải thoát.” Ngay cả những người đã đạt được trạng thái của trời hay người nhưng vẫn không giải thoát khỏi luân hồi sinh tử. Một người như thế vẫn còn phải nuôi dưỡng Bồ đề tâm. Bậc thầy vĩ đại Tịch Thiên (Shāntideva) nói:
Bồ đề tâm được hiểu theo hai phương diện:
Tâm ước nguyện giác ngộ (Bồ đề tâm ước nguyện)
Và tâm thực sự giác ngộ (Bồ đề tâm thực sự).
Cũng như mọi người đều biết sự khác biệt
Giữa ước muốn đi tới nơi nào và việc thực sự đi,
Cũng thế, người thiện xảo hiểu rõ các dị biệt giữa hai phương diện đó.
Hai phương diện là tâm thức nỗ lực hướng tới sự giác ngộ và tâm đã đạt tới điều đó.
Bồ đề tâm ước nguyện
Để nuôi dưỡng Bồ đề tâm ước nguyện, hãy lập một hứa nguyện đạt được kết quả. Hãy làm việc này bằng cách suy nghĩ:
Tôi sẽ giải thoát những người bị nhận chìm trong đại dương đau khổ của ba cõi thấp; tôi sẽ giải thoát tất cả chúng sinh, những bà mẹ nhiều vô hạn như bầu trời; và đặc biệt tôi sẽ giải thoát những kẻ thù đã làm hại tôi và tất cả chúng tôi, là những người đã gây nên các chướng ngại làm hại chúng tôi, những chướng ngại cho sự giải thoát và sự Toàn giác; và tôi sẽ giải thoát Ma vương và hội chúng của Ma vương.
Tôi sẽ giải thoát chúng sinh bị giam cầm trong sinh tử. Tôi sẽ an lập trong Đại Ấn những ai không được an lập trong đó. Với những ai không đạt được Niết bàn tôi sẽ an lập họ trong đó.
Trong Hành Bồ tát Hạnh, ngài Tịch Thiên viết:
Nếu những ai đau khổ - bị trói buộc bởi ngục tù của luân hồi sinh tử - hãy phát khởi Bồ đề tâm, thì từ giây phút ấy, họ được gọi là các Bồ tát, và họ trở thành đối tượng cho sự tôn kính thực sự trong thế giới của các vị trời và người.
Hơn nữa, Đức Phật đã nói:
Có một phẩm tính mà nếu các Bồ tát có nó, các ngài có thể từ bỏ những cõi thấp và không kết giao với những ác hữu; nó khiến các ngài hoàn toàn đạt được Phật quả viên mãn thật nhanh chóng. Phẩm tính đó là gì? Đó là Bồ đề tâm, sự toàn thiện của quan điểm tuyệt vời.
Bồ đề tâm thực sự
Nếu ta không có Bồ đề tâm thứ hai là Bồ đề tâm thực sự thì ta sẽ không thành tựu Bồ đề tâm thứ nhất, là Bồ đề tâm ước nguyện.
Ngài Atisha nói:
Nếu bạn phát khởi tâm ước nguyện
Nhưng không nuôi dưỡng ba giới hạnh,
Bạn sẽ không đạt được Giác ngộ.
Nuôi dưỡng tốt đẹp ba giới hạnh này -
Đó là thệ nguyện của Bồ tát.
Vì vậy, hãy nỗ lực
Để hoàn thành thệ nguyện Bồ tát.
Ngài Atisha cũng nói:
Nếu bạn không hoàn thành thệ nguyện của Bồ đề tâm thực sự, tâm ước nguyện sẽ không tăng trưởng. Vì vậy, nếu bạn ước muốn tăng trưởng Bồ đề tâm ước nguyện và đưa nó tới sự thành tựu, bạn phải nỗ lực thực hành Bồ đề tâm thực sự này.
Đối tượng của sự tuân thủ Bồ đề tâm thực sự
Hãy lập một hứa nguyện kiên quyết, nghĩ rằng:
Để tất cả chúng sinh có thể đạt được Phật quả, từ bây giờ cho tới ngày mai, cho tới cuối đời tôi, và cho tới khi tôi đạt được Giác ngộ, tôi sẽ thực hiện thiện hạnh của thân, ngữ, và tâm. Từ bây giờ cho tới lúc đó, tôi sẽ thực hành các giai đoạn của con đường năm nhánh sâu xa.
Việc lập hứa nguyện này một cách kiên quyết là Bồ đề tâm tương đối. Việc an trụ tâm ta nơi tánh Không là Bồ đề tâm tối thượng. Hai loại tâm này liên tục tạo ra các đức hạnh. Có vài luận giảng về điều này trong Hành Bồ tát Hạnh:
Tất cả các đức hạnh khác sản sinh kết quả chỉ một lần
Và sau đó bị khô kiệt,
Giống như một cây chuối;
Nhưng cây Bồ đề tâm
Sinh ra trái quả vô tận,
Phát triển không ngừng nghỉ.
Bồ đề tâm ước nguyện
Sản sinh trái quả to lớn trong vòng sinh tử;
Nhưng nó không liên tục tạo nên đức hạnh,
Như Bồ đề tâm thực sự đã làm.
Để hoàn toàn giải thoát
Vô số chúng sinh trong mọi cõi giới,
Bạn phải thường trực thành tựu Bồ đề tâm.
Nếu bạn có một tâm bất thối chuyển như thế,
Thì từ lúc nó bắt đầu phát khởi,
Và dù bạn thức hay ngủ –
Năng lực công đức của nó liên tục tuôn trào.
Đầy ngập không gian.
Những người phát khởi Bồ đề tâm đó không ngừng thành tựu mục đích của họ và làm lợi lạc người khác bằng bất kỳ phương cách nào họ muốn.
Từ ước nguyện lúc ban đầu của chúng ta (đối với những phẩm tính tốt đẹp để thành tựu bằng sự thực hành) cho tới khi ta đạt được Pháp Thân, ta nên kính ngưỡng Đức Vajradhara, hãy suy tưởng theo những câu kệ của Ngài Long Thọ Bồ tát:
Con đảnh lễ Đức Vajradhara vinh quang,
Thân Tự Tánh của Bồ đề tâm.
Đây là cách thức để đạt được sự tối thượng.