ĐỀ TỰA
1. Lời nói đầu này do Namkhai Norbu Rinpoche viết bằng tiếng Tây Tạng và sau đó được dịch ra tiếng Anh. Chú thích do dịch giả. Con đường tâm linh nào đều có thể phân tích thành Nền Tảng, Con Đường, hay những phương pháp thực hành, và Quả, hay Mục Đích. Ba Bộ giáo lý Dzogchen gồm Semde hay “Bộ Tâm”, Longde hay “Bộ Không Gian”, và Upadesha hay “Bộ Giáo Huấn Bí Mật”. Ba bộ này tương đương theo thứ tự với Nền Tảng, Con Đường và Quả của Dzogchen.
2.
rDorje tshig gsum, “Ba Câu Kệ Kim Cương”. Ba câu kệ hay ba tuyên bố này tạo thành Chúc Thư cuối cùng của đạo sư Garab Dorje và có đầu đề “Ba Tuyên Bố Điểm Vào những Điểm Thiết Yếu”. Ba điểm này ám chỉ Nền Tảng, Con Đường và Quả tương đương cái thấy hiểu, thiền định và hạnh của Dzogchen.
DẪN NHẬP
1. Đây là quan điểm của Namkhai Norbu Rinpoche, người mà trong sự tiếp cận của ngài nhấn mạnh đến tính cách không bộ phái của những giáo lý Dzogchen, dù theo truyền thống những giáo lý này được nối kết với trường phái Nyingma. Những Lama thường có một cái nhìn bộ phái hơn, chủ trương Dzogchen thuộc truyền thống Nyingma. Tuy nhiên, Namkhai Norbu Rinpoche chỉ ra rằng thật nghĩa của từ Dzogchen là Trạng Thái Bổn Nguyên của cá nhân và bởi thế, nó không tiêu biểu một quan niệm bộ phái gắn liền với một trường phái lịch sử riêng biệt nào. Lại nữa, về Dzogchen, từ
lta-ba nghĩa là “một cách thấy” hơn là một quan điểm trí thức hay tín điều. Trong bối cảnh này, kinh nghiệm trực tiếp cá nhân thì quan trọng hơn hệ thống triết lý. Sự tiếp cận của Norbu Rinpoche ở đây làm nhớ lại thái độ của D. T. Suzuki, trong những tác phẩm của ông viết về Phật giáo Thiền, ông đã nhắm đến việc phổ quát hóa Thiền và trình bày nó vượt ngoài một bối cảnh bộ phái thuần túy. Chẳng hạn, hãy đọc
Phật giáo Thiền: Những Tác Phẩm Tuyển Chọn của D. T. Suzuki (New York: Doubleday, 1956) và
Thiền và văn hóa Nhật Bản (New York: Pantheon, 1959). Sự tuyên bố rằng Dzogchen tiêu biểu giáo lý cao nhất của đức Phật và đại loại đã làm xúc phạm một số Phật tử Tây phương, đặc biệt là những hành giả của Theravada và Thiền; nhưng ở đây chúng tôi chỉ lập lại tuyên bố truyền thống trong trường phái Nying-ma từ viễn cảnh xếp loại riêng của truyền thống ấy phân chia giáo lý của Phật thành chín thừa liên tiếp nhau đến giác ngộ. Trong những nhà Nyingma nói chung, tuyên bố này không được dùng như một cách tranh luận để tấn công và bác bỏ những học thuyết và truyền thống Phật giáo khác có ở Tây Tạng. Dĩ nhiên, các Lama học giả cầm đầu các trường phái mới, là các nhà Sakya, Kagyud và Gelug, không nhất thiết công nhận tuyên bố của những nhà Nyingma cho rằng Dzogchen là chót đỉnh của tất cả chín thừa đến giác ngộ.
Lại nữa, theo Norbu Rinpoche, những bản văn Dzogchen nguyên bản ở Tây Tạng, nhất là những Upadesha, luôn luôn chỉ đến kinh nghiệm tức thời của hành giả. Chúng được tạo ra trong một ngôn ngữ bình thường không triết lý và dễ hiểu. Biện luận triết lý được giảm đến mức tối thiểu. Nhưng những bình giảng và thuyết minh viết trong những thế kỷ sau thì khó đọc và phức tạp hơn trong tư tưởng vì những học giả có những quan điểm triết lý thuộc học phái riêng và muốn chứng minh quan điểm của mình đối với các phái khác. Chẳng hạn một phần nỗ lực của Longchen Rabjampa ở thế kỷ mười bốn là chứng minh và bảo vệ cho Dzogchen đối với những tố cáo là ngoại giáo và không chính thức của các học giả Lama của những trường phái mới. Như trong
Theg-mchog rin-po-chei mdzod nổi tiếng của ngài, một hình thức rất triết học và học giả vẫn được dùng bởi những học giả để trình bày một cách hệ thống những truyền thống Kinh và Tantra. Điều đó cũng có với Jigmed Lingpa ở thế kỷ mười tám. Ngày nay cũng có một khuynh hướng tương tự khi dịch những bản văn Dzogchen bằng một ngôn ngữ giả tạo khác với ngôn ngữ đời thường. Điều này có thể làm cho Dzogchen dễ được chấp nhận bởi những hệ thống trí thức hàn lâm hiện đại, nhưng điều này ít ích lợi cho người muốn thực hành những giáo lý này trong cuộc sống hiện tại và bối cảnh xã hội. Theo Dzogchen, trước hết chúng ta phải tìm ra nghĩa thiết yếu và tương thông với nó hơn là những lý thuyết, luận lý và sự xây dựng hệ thống. Trước hết chúng ta phải nắm nguyên lý, và với Dzogchen, nguyên lý là một tỉnh giác
(rig-pa) tức thời vốn sẵn, nó có trước và vượt khỏi tiến trình tư tưởng.
Trong sự trình bày truyền thống của Dzogchen, trạng thái tinh túy này được biết là Rigpa thì như nhau đối với tất cả mọi cá nhân, tất cả chúng sanh nhân loại và không phải nhân loại. Rigpa là cái đối nghịch của vô minh hay thiếu tỉnh giác. Trạng thái này của Rigpa là một tỉnh giác thanh tịnh, vô lượng, vô tướng hay là một cảm thức của hiện diện. Dù nó thường được nói đến trong một ngôn ngữ tán thán, nhưng hơn là một cái gì huyền bí và ngoài thế gian, trạng thái Rigpa hoàn toàn bình thường và tức thời trực tiếp, thuộc về thế giới của cái tại đây và bây giờ này. Nó không nhất thiết bao gồm hiện tượng huyền bí hay những cái nhìn thấy siêu phàm hoan hỷ nào. Ngược lại, Rigpa là nền của tất cả kinh nghiệm có thể, bình thường hay không bình thường, trong chiều kích này hay trong một chiều kích khác, gồm cả Bardo, kinh nghiệm sau khi chết. Không có Rigpa, ở một mức độ nào, sẽ không có kinh nghiệm về bất cứ cái gì cả. Lại nữa, về tính cách bình thường nội tại vốn sẵn của nó, chúng ta nhớ đến sự khảo sát về Ngộ (Satori) trong truyền thống Thiền của Trung Hoa và Nhật Bản bởi D. T. Suzuki trong những tác phẩm của ông. Rigpa có được xem là một kinh nghiệm thần bí hay không là một vấn đề định nghĩa. Trong bản thân truyền thống Dzogchen, Rigpa không được xem là một kinh nghiệm thần bí hay như một nội dung của thức hay thậm chí một trạng thái về phần chủ thể của thức. (Xem
Tự-Giải Thoát qua việc Thấy Tánh Giác Trần Trụi của tôi [Bar-rytown, NY: Station Hill Press, 1989].) Dù thế nào, cũng có nhiều loại huyền bí học, và những kinh nghiệm huyền bí có thể hay không như nhau với những cá nhân. Một số học giả xác nhận chúng là như nhau (Vivekananda, Radhakrishnan, v.v…), trong khi một số khác bác bỏ điều này và phân biệt những phạm trù khác nhau của những kinh nghiệm tâm linh. Về quan niệm của tôi, hoặc những kinh nghiệm thần bí khác nhau giữa những cá nhân hay chúng đồng nhất một cách tối hậu đối với mọi người, thì những giải thích về những trạng thái thần bí của thức, cả về triết học lẫn tôn giáo, chắc chắn khác biệt, và những giải thích này tiến triển và biến đổi qua thời gian phù hợp với những lý do về lịch sử và triết học. Như thế, dù kinh nghiệm thần bí tối hậu thì vượt khỏi thời gian, bản thân huyền bí học có một lịch sử, như tôn giáo đều vậy. Về những kinh nghiệm thần bí nói chung và ở đây về Dzogchen nói riêng, cả hai mặt này, cái phổ quát không lịch sử và cái đặc thù có lịch sử, cả hai cần được tôn trọng.
2. Những cái này là
thal-ba bcu-gsum trong
sGra thal-gyur, Tantra chính trong loại Upadesha của những Tantra Dzog-chen. Vũ trụ học và thuyết nguồn gốc vũ trụ ở trong bản văn đó và trong những Tantra Dzogchen khác có một sự tương tự nào đó với
Kinh Hoa Nghiêm. Một tóm kết vũ trụ luận này được Dodrupchen Rinpoche viết, mà tôi đã dịch với đầu đề
Vũ Trụ Luận của những Tantra Dzogchen, sẽ xuất bản.
3. Kiêu hãnh thiêng liêng ở đây không phải là sự kiêu hãnh có từ phiền não và chấp ngã, cũng không phải là một kiêu hãnh tâm linh của người muốn thành thánh. Kiêu hãnh thiêng liêng là một hiểu biết và do đó chấp nhận bản tánh giác ngộ bẩm sinh hay Phật tánh và một cảm thức về sự đồng nhất của tâm thức thanh tịnh (nghĩa là vô ngã) với một năng lực thiêng liêng hay một hình tướng thiêng liêng (
yidam, Skt.
devata) nó là một biểu lộ đặc biệt của Phật tánh vốn giác ngộ này. Vào lúc bắt đầu thực hành sadhana, cái ngã thường nghiêm cũng như tri giác bình thường về môi trường chung quanh, được hòa tan vào trạng thái tánh Không. Rồi trong trạng thái tham thiền vô tướng này, có đặc trưng là tánh Không và quang minh, người ta tự biểu lộ trở lại trong một hình tướng thiêng liêng thanh tịnh được biết như là một hiện thể tượng trưng hay Samayasattva. Chính trong cái đồ chứa, cái phương tiện chuyên chở thanh tịnh này mà những năng lực và cảm ứng cao hơn từ Phật tánh vốn giác ngộ nơi mình được triệu thỉnh khỏi bầu trời vô biên của Tâm, đi xuống hình tướng thanh tịnh này của Vajrasattva, cái đã được cấu tạo và quán tưởng bởi hoạt động của tâm thức. Những năng lực này của cảm ứng hay ban phước bày tỏ chính chúng trong những hình tướng đặc biệt được biết là
Jnanasattva, hay những hiện thể trí huệ. Ngay đó hai cái này, hiện thể tượng trưng và hiện thể trí huệ, hòa trộn thành một nhất thể, trở thành một và không thể tách lìa. Bấy giờ người ta khai triển một cảm thức đồng nhất, thực sự là thực thể nhất thể này trong suốt thực hành sadhana. Và bởi vì cảm thức đồng nhất này hay kiêu hãnh thiêng liêng này, tất cả những năng lực và tiềm năng của biểu lộ thiêng liêng này hay hình tướng thiêng liêng được hiện thể trong kinh nghiệm của người ta. Ít ra, đây là trường hợp của các vị lão thông hay Mahasiddha (đại thành tựu giả).
4. Nói chung, những cái thấy hiểu (
lta-ba) của Đại Ấn và Đại Toàn Thiện là như nhau, nhưng theo hầu hết những Lama hướng dẫn tôi, chúng khác nhau trong một số điểm về thiền định và hạnh.
5. Trong quá khứ, danh từ được dịch sai lầm là “hạt tâm”, không có nghĩa. “Hạt, giọt” đáng ra là
thig-pa, không phải là
thig-le.
BÌNH GIẢNG VỀ “GIÁO LÝ ĐẶC BIỆT CỦA ĐỨC VUA THÔNG THÁI VÀ VINH QUANG” BỞI DỊCH GIẢ
1. Về vấn đề này, sự thực hành liên tục tham thiền cả ngày và đêm, xem bản văn của Namkhai Norbu do tôi dịch trong
Chu Kỳ của Ngày và Đêm (Barrytown, NY: Station Hill, 1987).
2. Làm sao để thực hành Tịnh Quang tự nhiên liên hệ với giấc ngủ và giấc mộng minh bạch, xem Namkhai Norbu,
Chu Kỳ của Ngày và Đêm BÌNH GIẢNG GIỮA DÒNG “CHÚC THƯ CUỐI CÙNG CỦA GARAB DORJE” BỞI DỊCH GIẢ
1. Thekchod và Thodgal: Để những thiền giả Việt Nam có cái nhìn rõ hơn về hai pháp tu này, bản dịch tiếng Việt trích thêm vài đoạn của các hành giả Tây Tạng xưa (Buddha Mind của Longchen Rabjampa – Phật Tâm, NXB. Thiện Tri Thức):
Thekchod là con đường qua đó người ta tu hành về tánh giác bổn nhiên trần trụi, không nương dựa vào những hình tướng xuất hiện (những cái nhìn thấy) của tánh sáng tỏ (của
Thodgal) và nó giải thoát không có nỗ lực. Nó là con đường quyết định cho người có trí sắc bén nhưng ít tinh tấn.
Thodgal là con đường qua đó người ta đạt đến giải thoát với nỗ lực. Dựa vào những hình tướng (những cái nhìn thấy) của tánh sáng tỏ, người chuyên cần tịnh hóa những thân thể thô ngay trong đời này và đạt giác ngộ.
(Pema Ledrel Tsal)
Mọi thực hành của Dzogchen đều gồm trong Thekchod, sự tu hành về sự hợp nhất của tánh giác bổn nhiên và tánh Không, và Thodgal, sự tu hành về sự hợp nhất của những hình tướng và tánh Không.
(Natshog Rangtrol)
Nếu người ta không làm hiển lộ trần trụi (hay chứng ngộ tánh giác vốn sẵn, cội nguồn của “tánh thanh tịnh bổn nguyên” lẫn của “thành tựu tự nhiên”, thì chỉ có được những kinh nghiệm trong những hiện tượng của tánh Không – hình sắc của
Thodgal sẽ không đem lại lợi lạc, ngoài việc làm cho người ta tái sanh vào những cõi Sắc.
(Jigmed Lingpa)
Nương dựa vào tánh thanh tịnh bổn nguyên tức là tánh Không, làm hiển lộ tánh giác vốn sẵn một cách trần trụi, thoát khỏi mọi tạo tác, và làm tan biến (những hiện hữu hiện tượng vào) bản tánh tối hậu, tánh Không, đó là
Thekchod. Nương dựa vào những hình tướng xuất hiện (hay những cái nhìn thấy), sự thành tựu tự nhiên của việc tịnh hóa những phương diện thô vào tánh sáng tỏ (định quang minh) và làm tan biến (những hiện tượng vào) bản tánh tối hậu của những hình tướng, đó là Thodgal.
(Jigmed Lingpa)
2. Cũng ở đây bản dịch Việt chú thích thêm về bốn giai đoạn của sự nhìn thấy:
Trong
Dra Thalgyur Tantra có nói:
Cái nhìn thấy của (chứng ngộ) trực tiếp về Bản Tánh Tối Hậu
Siêu vượt (thậm chí) cả lời nói có “người hiểu”, sự phân tích trí óc.
Cái nhìn thấy của sự khai triển của kinh nghiệm
Làm tan biến những hình tướng như huyễn
Và đạt đến trí huệ bổn nguyên của trạng thái trung ấm.
Cái nhìn thấy của sự Hoàn Thiện của tánh Giác Vốn Sẵn
Siêu vượt những hình tướng ý niệm của con đường của ba Thân.
Cái nhìn thấy của sự Kiệt Tận vào trong Bản Tánh Tối Hậu
Chấm dứt sự tương tục của chuỗi xích của sanh tử.