CHÚ THÍCH
1. Kunu Rinpoche (1885-1977), ngài vốn đến từ Ấn Độ, học ở Tây Tạng và trở thành một trong những vị thầy của Dalai Lama.
2. Patrul Rinpoche (1808-1887) là một vị thầy nổi bật, gốc từ xứ Kham miền đông Tây Tạng. Ngài được xác nhận là một hóa thân của Shantideva và của Chenrezi, đức Phật của lòng Đại Bi. Có lẽ ngài được biết nhiều do cuốn sách của ngài Kunzang lame shelung (được dịch thành Những Lời của vị Thầy Hoàn Hảo của tôi, sắp xuất bản năm 1994 do ISLT / Harper San Francisco).
3. Shantideva là một đạo sư Phật giáo thế kỷ thứ tám ở đại học tu viện Nalanda ở Ấn Độ. Chính những nhà sư của Nalanda mà ngài lần đầu dạy cho Bồ Tát Hạnh.
4. Tâm Kinh là một hình thức ngắn gọn nhất của những Kinh Bát Nhã ba la mật và chứa đựng tinh túy của những giáo lý về tánh Không. Xưng tán Văn Thù là một cầu nguyện đến vị Phật của Trí Huệ, thường được đọc tụng trước khi nghiên cứu một bản văn Phật giáo. Một mạn đà la, một biểu tượng tượng trưng cho vũ trụ, được dâng cúng cho vị thầy khi cầu thỉnh ban cho những lời dạy.
5. Bánh Xe Pháp là biểu tượng của sự giảng dạy của đức Phật. Quay Bánh Xe Pháp đồng nghĩa với trình bày những lời dạy. Sự giải thích xa hơn được đưa ra về sau trong chương này.
6. Luật (Vinaya) là phần những lời dạy của đức Phật đề cập đến hạnh kiểm đạo đức, đặc biệt là những lời nguyện và điều giới cho tăng ni xuất gia và cư sĩ Phật giáo.
7. Một dòng phái là một dòng những vị thầy Phật giáo trao truyền lại cho những người thừa kế tâm linh của các ngài những lời dạy mà chính các ngài đã nhận được và thừa kế từ bổn sư của các ngài. Một dòng phái có thể quan hệ với một bản văn đặc biệt hay một nhóm các giáo lý. Hầu hết các dòng phái có thể lần theo dấu vết ngược trở lại cho đến chính đức Phật. Dòng phái của Dalai Lama về Bồ tát hạnh đi từ Shantideva qua một dòng liên tục các đạo sư Phật giáo đến Patrul Rinpoche, rồi đến Khenpo Shenga (1871-1927), Kunu Rinpoche, và chính Dalai Lama.
8. Minyak Kunzang Sonam là một học giả vĩ đại phái Gelug học với Patrul Rinpoche gần hai mươi năm. Bình giảng của ngài về Bồ Tát Hạnh là bộ chi tiết nhất có thể có được.
9. Jamyang Khyentse Wangpo (1820-1892) là người chịu trách nhiệm cho sự phục hưng của Phật giáo ở Tây Tạng trong thế kỷ trước. Vị đại lama này là một trong những nhà sáng lập của phong trào Rime, hay phong trào không bộ phái.
10. Trong Đại thừa Phật giáo, từ không có ngã, vô ngã (Tây Tạng: bdag med; Skt: nairatmya) áp dụng không chỉ cho cái tôi cá thể mà còn cho tất cả mọi hiện tượng, ngã trong bối cảnh này nghĩa là thực thể thực sự hay bản chất. Một Bồ tát đã chứng ngộ vô ngã nơi mình như một cá nhân và nơi tất cả mọi hiện tượng khác.
11. Cấp độ thứ nhất: xem Thuật ngữ, Mười cấp độ
12. Mười ba la mật gồm sáu ba la mật (xem Thuật ngữ) cùng với phương tiện thiện xảo, sức mạnh, nguyện vọng và trí huệ bổn nguyên.
13. Nagarjuna (Long Thọ, thế kỷ thứ nhất hay thứ hai) là một đạo sư Ấn Độ chịu trách nhiệm cho sự truyền bá những giáo lý bát nhã ba la mật. Những lời dạy của ngài về tánh Không hình thành nền tảng cho giáo thuyết Madhyamika, hay Trung Đạo.
14. Xem Thuật ngữ, Mười tám đặc tính của một cuộc đời làm người quý báu.
15. Gendun Drupa (1391-1474) là vị đầu tiên trong dòng những tái sanh sau đó (kể từ cuộc đời của vị thứ ba) được nhận danh hiệu Dalai Lama. Như thế ngài là Dalai Lama “thứ nhất.”
16. Aryadeva (thế kỷ thứ hai) tiếp tục công trình của Nagar- juna và giải thích thêm những lời dạy của Trung Đạo.
17. Xem chương tám, trang 139, về một phương pháp truyền thống khai triển lòng bi và quan tâm đến những người khác bằng cách nhìn họ như cha mẹ của mình.
18. Cầu Nguyện Bảy Ngành là một thực hành để tịnh hóa chính mình và tích lũy công đức qua lễ kính, cúng dường, sám hối, vui theo công đức của những người khác, thỉnh cầu những lời dạy, cầu xin chư Phật và những vị thầy khác ở lại trong thế giới này, và hồi hướng công đức mình đến giác ngộ của tất cả chúng sanh.
19. Abhidharma là phần của những lời Phật dạy giải thích siêu hình học Phật giáo và những cấp độ trên con đường đến Phật tánh.
20. Danh từ Ma thường được dùng trong Phật giáo để chỉ mọi chướng ngại cho tiến bộ tâm linh. Những chướng ngại như vậy là những biểu lộ của tâm thức và nghiệp của chúng ta. Chúng không nên được nghĩ như là những chúng sanh thù ngịch đe dọa chúng ta từ bên ngoài.
21. Dignaga là một đạo sư Ấn Độ thế kỷ thứ năm hay thứ sáu.
22. Mười sáu phụ phân của Bốn Chân Lý Cao Cả là (1) chân lý về khổ: khổ, vô thường, tánh Không, và vô tự tánh; (2) chân lý về nguồn gốc của khổ: nguồn gốc của khổ, sự sanh ra, căn cứ thuộc về nguyên nhân, và những điều kiện; (3) chân lý của sự ngừng dứt: ngừng dứt, làm cho bình an, tuyệt hảo, và từ bỏ; (4) chân lý của con đường: con đường, hiểu biết, thành tựu, và giải thoát.
23. Tám đệ tử thân cận là tám vị Bồ tát: Manjushri, Avalo- kiteshvara, Vajrapani, Akashagarbha, Kshitigarbha, Sarvanivaranavishkambhin, Maitreya, và Samanta- bhadra.
24. Sáu món trang sức là: Nagarjuna, Aryadeva, Asanga, Vasubandhu, Dignaga, và Dharmakirti.
25. Hai vị thầy tối cao là: Shantideva và Chandragomin.
26. Một ví dụ cho điều này là nói một lời dối trá nếu làm thế để cứu đời của ai đó.
27. Ba độc là tham, sân và si (vô minh).
28. Sắc thân là thân hình thể của một vị Phật, trong nó ngài xuất hiện cho chúng sanh. Nó bao gồm báo thân và hóa thân (xem Thuật ngữ).
29. Ví dụ, công đức có được qua thiền định về chư thiên (deva) trong cõi vô sắc giới không thể hủy hoại được bởi giận dữ khởi lên trong trạng thái đang làm người.
30. Một Tịnh Độ là một thế giới biểu lộ bởi một vị Phật hay Bồ tát phù hợp với công đức của những chúng sanh. Những chúng sanh tái sanh trong một Tịnh Độ có thể tiến bộ nhanh chóng trên đường đến Phật tánh.
31. Những chi tiết về học thuyết Samkhya có thể tìm thấy trong T. R. V. Murti, Triết Lý Trung Đạo của Phật giáo (London: Allen và Unwin, 1960).
32. Thoát khỏi một sanh tử được giả định là thường còn là một mâu thuẫn ngay trong ngôn ngữ.
33. Cõi vô sở hữu xứ là một trong bốn thế giới vô sắc, hay cõi vô sắc, ở chót đỉnh của vòng sanh tử, được kinh nghiệm qua bốn thiền vô sắc mà những hành giả của con đường Phạm Thiên (Brahma) được xem là đạt được. Những chúng sanh trong những cõi này đã tạm thời nén lặng những thức tình tiêu cực thô, nhưng tâm thức của họ còn thấm khắp bởi vô minh và họ thiếu bất cứ chứng ngộ nào về vô ngã. Vì lý do này, họ không thể thoát khỏi sanh tử và tiếp tục sanh lại trong các cõi thấp hơn. Xem Thuật ngữ, Ba cõi.
34. Cái thấy, tri kiến của phái Madhyamika là cái thấy của Trung Đạo đề xướng bởi Nagarjuna. Nó được bàn luận khá đầy đủ trong chương 9 của Bồ Tát Hạnh.
35. Những cái này là bốn cách tri giác một đối tượng. Xem Anne C. Klein, Hiểu Biết và Giải Thoát (Ithaca, N.Y. Snow Lion, 1986), trang 108-110.
36. Năm khuyết điểm ngắt phá định tâm là lười biếng, quên những lời dạy về thiền định, hôn trầm và phóng dật, thiếu cố gắng và quá nỗ lực. Xem Mahamudra, Lobsang P. Lhalungpa dịch (Boston: Shambhala, 1986), trang 21.
37. Ba cái khổ là: (1) Khổ thêm vào khổ là cái mọi chúng sanh có thể tri giác như không ưa thích và đau đớn; trong sanh tử, những cái khổ theo nhau trong một tiếp nối không dứt. Ví dụ, khi người ta đã bị bệnh, người ta không chống nổi cơn bệnh khác, hay sự mất mát tất cả tài sản theo sau việc căn nhà bị cháy. (2) Khổ của biến dịch ám chỉ sự kiện mọi hạnh phúc và vui thích trong sanh tử đều phải bị biến đổi, sớm hay muộn, thành một trạng thái khổ. Ví dụ, một sự vui thích về vị giác được kinh nghiệm trong một bữa ăn ngon có thể mở đường cho một khó chịu về tiêu hóa. (3) Khổ thấm nhuần khắp được định nghĩa như là cái khổ do từ sự kiện đơn thuần là có năm uẩn, hay năm hợp thể. Khi nào người ta còn mang lấy sự hiện hữu bị điều kiện hóa trong sanh tử, thì còn có khổ. Hầu hết những chúng sanh bình thường không thể tri giác được cái khổ này một cách rõ ràng, cũng như người ta khó có thể cảm thấy một sợi tóc trong lòng bàn tay. Nhưng cũng như một sợi tóc trong con mắt gây ra khó chịu và đau đớn dữ dội, những chúng sanh đã chứng ngộ thì kinh nghiệm cái khổ thấm nhuần khắp này rất sắc nét. Giải thích thêm được tìm thấy trong Đồ Trang Sức bằng Ngọc của Giải Thoát của Gampopa dịch bởi H.V. Guenther (Boston: Shambhala, 1986) và trong Những Lời của vị Thầy Hoàn Hảo của tôi của Patrul Rinpoche (xem chú thích số 2).
38. Năm con đường và mười cấp bậc: xem Thuật ngữ.
39. Năm khoa học chính yếu là ngôn ngữ, luận lý, thủ công, y khoa và triết học.
40. Xem Thuật ngữ, Mười Hai móc xích tương thuộc.
41. A la hán nghĩa là “người đã hủy diệt những kẻ thù.” Những kẻ thù ở đây là những tình thức tiêu cực, chúng bị tiêu diệt qua sự thực hành những giáo lý của thừa căn bản, hay Thanh Văn thừa. Những vị A la hán hoàn thành giải thoát khỏi những khổ đau của sanh tử, nhưng vì sự chứng ngộ về tánh Không của các vị chưa hoàn hảo, các vị không thể từ bỏ những tấm màn vi tế của sự bám chấp vào thực tại của hiện tượng, chúng là những chướng ngại đối với toàn giác. Các ngài còn phải đi vào Đại thừa để tiến đến mục đích tối thượng là Phật tánh.
42. Điều này bởi vì tâm thức phải được nâng đỡ và làm mạnh bằng kho công đức khổng lồ để có thể chứng ngộ tánh Không.
43. Bởi vì Thanh Văn và Độc Giác Phật tìm kiếm giải thoát chỉ cho riêng các ngài, các ngài được xem như gia tộc kém hơn những người thuộc gia tộc Bồ tát, cố gắng cho giác ngộ của tất cả chúng sanh.
44. Thật vậy, ngài đã dạy chương thứ chín của Bồ Tát Hạnh cho một thính chúng rộng rãi vào tháng tám năm 1993 ở Viện Vajrayogini, Lavaur. Một bản dịch của lời bình giải này đang được sửa soạn. Ngài đã đặt lời dạy của ngài căn cứ trên hai bình giải chi tiết của Khenpo Kun-zang Palden và Minyak Kunzang Sonam (xem chú thích số 8). Hai bình giải này đã được dịch, theo ý muốn đã được ngài nói ra, dưới nhan đề Trí Huệ: Hai Bình Giải Phật giáo, do hội Dịch Thuật Padmakara (Peyzac-le-Moustier, Pháp: Padmakara, 1993).