CHƯƠNG VI: NHẪN NHỤC
Chương này nói về nhẫn nhục, nó cùng với thiền định, chủ đề của chương thứ tám, tạo thành những phương diện then chốt của tu hành Bồ đề tâm. Những lời dạy chứa trong hai chương này là những trợ giúp rất mạnh mẽ cho thực hành.
1. Những hạnh lành tích tập trong một ngàn kiếp
Như công hạnh rộng lượng bố thí,
Hay cúng dường những bậc An Lạc –
Chỉ một tia chớp của sân hận làm vỡ tan tất cả.
2. Không cái xấu ác nào bằng sân giận,
Cũng không khổ hạnh nào so sánh được với nhẫn nhục.
Bởi thế hãy trầm mình trong nhẫn nhục.
Trong mọi cách, khẩn cấp với lòng sốt sắng.
Không có cái gì mạnh hơn giận dữ. Một khoảnh khắc sân hận có thể hủy hoại mọi hành động tích cực đã tích tập trong ngàn kiếp với sự thực hành rộng lượng, cúng dường chư Phật, giữ giới… Thật vậy, không lỗi lầm nào nghiêm trọng bằng sân hận.
Ngược lại, nhẫn nhục như là một kỷ luật làm trung tính và ngăn ngừa chúng ta khỏi sụp đổ bởi giận dữ, thì không gì sánh. Qua nó, sự khổ đau chúng ta chứa đựng từ sức nóng của những thức tình tiêu cực được gỡ bỏ. Bởi thế, quan trọng nhất là chúng ta quyết định thực hành nhẫn nhục, lấy cảm hứng từ suy nghĩ về những lợi ích của nó và về những hậu quả khủng khiếp của giận dữ.
Ở đây, từ những hành động tích cực ám chỉ sự rộng lượng, cúng dường chư Phật chư Bồ tát, và giữ giới, như được giải thích trong Lối vào Trung Đạo. Nó không nhằm vào công đức có được qua sự chứng ngộ tánh Không. Sân hận không thể phá hủy loại công đức này. Sân hận của một trạng thái thấp của tâm thức cũng không thể phá hoại những hành động tích cực được tích tập với một trạng thái cao của tâm thức.(29) Tóm lại, có hai loại công đức mà sân hận không thể phá hoại: công đức của sự chứng ngộ tánh Không và công đức của những phẩm tính tâm linh đến từ thiền định. Ngoài hai cái này, những kết quả tốt của mọi hành động tích cực bình thường khác đều có thể bị hủy hoại bởi sân hận. Tuy nhiên, điều này tùy thuộc vào cường độ của sân hận, vào độ lớn lao của hành động tích cực, và vào người mà sân hận của chúng ta hướng đến. Theo cách này, một hành động tích cực có thể bị yếu đi hay hoàn toàn hủy hoại do sân hận.
Những hành động tích cực thì khó thực hiện và bởi thế không thường xảy ra. Khó mà có những tư tưởng tích cực khi tâm thức người ta bị ảnh hưởng bởi những thức tình và rối loạn bởi những hoàn cảnh đối nghịch. Những tư tưởng tiêu cực tự chúng khởi sanh, và khó làm cho những hành động của chúng ta thực sự tích cực khi ý định của chúng ta và cách thức chúng ta tiến hành chúng không hoàn toàn trong sạch. Kho chứa những hành động tích cực khó khăn mới có vốn nghèo nàn của chúng ta hóa thành vô hiệu trong khoảnh khắc sân hận. Sự thiệt hại thì vô cùng nghiêm trọng hơn là nếu chúng ta mất đi một cái gì dễ kiếm được.
3. Những người bị khổ đau của sân hành hạ
Sẽ không bao giờ biết được sự bình lặng của tâm thức,
Xa lạ với mọi niềm vui và sung sướng,
Giấc ngủ bỏ trốn họ; họ không bao giờ an nghỉ.
Khi người ta nổi sân, họ mất mọi cảm thức hạnh phúc. Dù nếu họ trông dễ coi và bình thường an bình, khuôn mặt của họ biến thành xám ngắt và xấu xí. Giận dữ làm xáo trộn sức khỏe thể xác và quấy rối sự nghỉ ngơi; nó phá hoại sự ngon miệng và làm cho già sớm. Hạnh phúc, an bình và giấc ngủ trốn khỏi họ và họ không còn tán thưởng người nào giúp đỡ họ và xứng đáng với sự tin tưởng và biết ơn của họ. Dưới ảnh hưởng của sân, người bình thường có tính khí tốt biến đổi hoàn toàn và không thể tin cậy được nữa. Họ bị hủy hoại bởi cơn giận của họ, và họ cũng hủy hoại những người khác nữa. Nhưng người nào để hết năng lực vào việc hủy diệt sân hận sẽ hạnh phúc trong đời này và trong những đời tới.
7. Được cái tôi không muốn
Hay cái gì ngăn chặn tham muốn của tôi –
Bấy giờ tâm thức tôi tìm ra nhiên liệu cho sự khốn khổ,
Sân hận vọt lên từ đó và đánh đổ tôi.
Khi chúng ta nghĩ đến một người nào đã làm hại chúng ta hay họ đang làm (hay định làm) điều gì chúng ta hay bạn bè chúng ta không thích – lấy của chúng ta cái chúng ta muốn – tâm thức chúng ta mới bình an giây phút trước đó, bỗng trở nên lao xao dao động. Trạng thái này của tâm thức tiếp nhiên liệu cho những tư tưởng tiêu cực. Thật là một con người đáng ghê sợ! chúng ta nghĩ và sự không thích chuyển thành căm giận. Chính giai đoạn đầu tiên này, cái cảm giác bất an thắp cháy sự giận dữ của chúng ta, mà chúng ta nên cố gắng thoát khỏi. Đó là lý do Shantideva nói:
8. Bởi thế tôi sẽ phá hủy hoàn toàn
Chất nuôi dưỡng này cho kẻ thù của tôi,
Kẻ thù ấy chỉ có ý định duy nhất là
Đem buồn phiền lại cho tôi.
Chúng ta nên cố gắng dùng mọi phương cách để thoát khỏi cái cảm giác ban sơ của sự bất an này.
9. Điều gì có xảy ra, tôi cũng không bao giờ làm hại
Sự an vui của tâm thức.
Sự thất vọng chẳng bao giờ đem lại cho tôi điều tôi muốn;
Nên đức hạnh của tôi sẽ không bị hư hoại bởi nó.
10. Nếu có một cách cứu chữa khi rắc rối xảy đến,
Thì ích gì phải buồn?
Và nếu giải pháp không tìm ra được
Thì buồn phiền có lợi ích gì?
Chúng ta phải cố gắng ở trong một trạng thái buông xả của tâm thức. Bởi vì trừ phi chúng ta thoát khỏi cảm giác bất an này, nó sẽ nuôi dưỡng sự sân hận của chúng ta, làm cho sân hận lớn lên và cuối cùng hủy hoại chúng ta.
Giận dữ thì tệ hơn bất cứ kẻ thù bình thường nào. Dĩ nhiên, những kẻ thù bình thường làm hại chúng ta: đó là lý do tại sao chúng ta gọi họ là kẻ thù. Nhưng sự tổn hại họ gây cho chúng ta là nhắm đến giúp cho chính họ hay những người bạn của họ, chứ không hẳn là làm cho chúng ta mất hạnh phúc. Ngược lại, kẻ thù bên trong, sự sân hận, không có nhiệm vụ nào hơn là hủy hoại những hành động tích cực của chúng ta và làm chúng ta khổ đau. Đó là lý do Shantideva nói, “Kẻ thù của tôi chỉ có ý định duy nhất là đem lại buồn phiền cho tôi.” Từ lúc nó xuất hiện, nó hiện hữu chỉ với mục đích làm hại chúng ta. Bởi thế chúng ta cần đương đầu với nó với mọi phương tiện chúng ta có. Chúng ta hãy duy trì một trạng thái bình an của tâm thức và không rối loạn.
Cái chọc giận chúng ta trước tiên là điều chúng ta muốn không được đáp ứng. Nhưng rối loạn không làm được gì để đáp ứng cho những ý muốn đó. Như thế chúng ta không thỏa mãn được những ước muốn của chúng ta đã đành mà cũng không lấy lại được sự an vui của chúng ta! Trạng thái không bằng lòng này, từ đó giận dữ có thể lớn mạnh, là rất nguy hiểm. Chúng ta cố gắng không bao giờ để cho cơ cấu hạnh phúc của tâm thức bị rối loạn. Hoặc chúng ta đang khổ đau bây giờ hay đã khổ đau trong quá khứ, không có lý do gì để bất hạnh. Nếu chúng ta có thể chữa trị nó, tại sao lại bất hạnh? Và nếu chúng ta không thể, ích lợi gì khi thất vọng về nó? điều ấy chỉ tăng thêm bất hạnh và chẳng tốt đẹp tí nào.
Trạng thái không bằng lòng ban đầu này, nó làm giận dữ sanh ra, gây ra bởi những điều chúng ta không muốn. Chẳng hạn, chúng ta không muốn bạn bè chúng ta hay chính chúng ta khổ đau hay bị sỉ nhục, chỉ trích hay bị khinh miệt. Khi chúng ta không thể tránh những điều này, chúng ta trở nên buồn. Ngược lại, chúng ta cảm thấy hài lòng khi chính những kẻ thù của chúng ta khổ đau vì những điều như vậy, và chúng ta không vui lòng khi những điều tốt đẹp đến với họ.
12. Nguyên nhân của hạnh phúc thì hiếm khi đến,
Và nhiều thay là những hạt giống của khổ đau!
Nhưng nếu không đau khổ, tôi sẽ không bao giờ mong ngóng giải thoát.
Bởi thế, hỡi tâm ta, hãy vững vàng kiên nhẫn!
Nói chung, chúng ta phải làm nhiều cố gắng để có được hạnh phúc, trong khi khổ đau thì đến một cách tự nhiên. Chỉ sự kiện có một thân thể là đã bao gồm khổ đau không tránh được. Những khổ đau thì nhiều và nguyên nhân của chúng cũng rất lắm. Một người có trí có thể thành tựu hạnh phúc bằng cách chuyển hóa những nguyên nhân của bất hạnh thành những điều kiện thuận lợi. Chúng ta có thể dùng khổ đau như một phương tiện để tiến bộ. Như Shan-tideva nói, “Nếu không có đau khổ, tôi sẽ không bao giờ mong ngóng giải thoát.”
Chỉ là điều tự nhiên khi chúng ta ghét khổ đau. Nhưng nếu chúng ta có thể khai triển ý lực chịu đựng những khó khăn, bấy giờ chúng ta sẽ càng lúc càng khoan dung. Như có nói trong bản văn:
14. Không có cái gì mà không
Dễ dàng lớn lên qua thói quen.
Chịu đựng những rắc rối nho nhỏ
Sẽ sửa soạn cho tôi nhẫn chịu nhiều buồn phiền hơn.
16. Nóng và lạnh, gió và mưa,
Bệnh tật, tù tội, đánh đập –
Tôi sẽ không bực bội với những thứ ấy,
Vì làm thế sẽ làm nặng thêm rối loạn cho tôi.
Nếu chúng ta rất nhẫn nhục, bấy giờ cái gì bình thường chúng ta xem là rất đau đớn sẽ không xuất hiện quá xấu lắm đâu. Nhưng không có kiên nhẫn chịu đựng, ngay cả một sự gì nhỏ nhất cũng không thể chịu nổi. Cái gì cũng tùy thuộc vào thái độ của chúng ta.
17. Khi thấy máu mình chảy,
Có những người lòng can đảm lại tăng thêm,
Trong khi một số người yếu đuối thì bất tỉnh
Chỉ vì thấy người khác bị đổ máu!
Tương tự, nếu chúng ta có thể khai triển nhẫn nhục, chúng ta sẽ có thể chịu đựng những khó khăn lớn lao gặp phải.
Nhẫn nhục nghĩa là ngay dù giáp mặt với khổ đau hay chướng ngại lớn lao chúng ta không để cho nó làm nhiễu loạn tâm thức. Dĩ nhiên, quả là khó xem được những khổ đau như là đáng ưa và chuyển hóa chúng thành những tình trạng thuận ý, tốt đẹp. Chúng ta phải kiên nhẫn vì chúng ta đang tiến hành một cuộc chiến tranh quyết định với những tình thức tiêu cực như sự thù ghét, kẻ thù xấu nhất. Chờ đợi sự thương tổn khi chiến đấu với một kẻ thù bình thường là tự nhiên, thì khi chiến đấu với kẻ thù chính yếu, sự thù ghét, chắc sẽ không dễ dàng. Nhưng nếu chúng ta bất chấp mọi đe dọa như thế và chiến thắng những thức tình tiêu cực, bấy giờ chúng ta có thể thực sự được gọi là những anh hùng. Ngược lại, quy phục giận dữ và giết chết một kẻ thù bình thường thì không can đảm gì hơn đâm một người đã chết. Không có gì đặc biệt trong chuyện đó.
21. Khổ đau cũng có giá trị của nó.
Qua buồn phiền, kiêu mạn bị đuổi đi,
Và lòng thương xót đối với những người luân lạc trong sanh tử được cảm nhận,
Cái ác bị xa lìa, và cái thiện được vui thích.
Sự khổ đau cũng có mặt tích cực. Đối với một sự việc, chúng ta mất đi cảm giác tự cho là quan trọng. Chúng ta học biết cảm kích sự khổ đau của những người khác, và lòng bi của chúng ta lớn lên. Và chúng ta trở nên cẩn thận không dám tích tập những nguyên nhân của khổ đau.
Người nào cũng có ít ra vài khuynh hướng không ích kỷ, dù còn bị giới hạn. Khai triển những khuynh hướng này đến khi ý muốn giúp đỡ những người khác trở thành vô biên là điều được gọi là Bồ đề tâm. Những chướng ngại chính cho sự phát triển này là ý muốn làm hại những người khác, ghét hận, và giận dữ. Để chống lại những cái này, bởi thế thiết yếu là thiền định về nhẫn nhục. Chúng ta càng thực hành sâu xa, cơ hội cho giận dữ sanh ra càng ít. Nhẫn nhục là cách tốt nhất để loại bỏ giận dữ.
Bây giờ chúng ta hãy nói về tình thương. Theo ý tôi, mọi chúng sanh đều muốn được thương yêu. Điều này là tự nhiên và tự phát. Ngay cả thú vật cũng muốn người ta tốt với chúng. Khi ai đó nhìn bạn với một biểu lộ yêu mến, nó làm cho bạn sung sướng, phải thế không? Tình thương là một phẩm tính được quý chuộng khắp hết nhân loại, trong mọi tôn giáo. Tất cả tôn giáo, gồm cả Phật giáo, đều diễn tả những vị sáng lập của chúng trên hết là khả năng thương yêu của các ngài. Những tôn giáo nói về một đấng sáng tạo đều nhắc đến lòng thương xót của đấng sáng tạo. Và phẩm chất chính của những vị ban cho sự nương dựa tâm linh là tình thương.
Khi chúng ta nói về một Tịnh Độ đầy ắp sự hiện diện của tình thương, người ta cảm thấy như đi đến đó. (30) Nhưng nếu chúng ta diễn tả một Tịnh Độ như là một xứ sở của chiến tranh và tranh đấu, người ta sẽ không cảm thấy mong muốn nào sanh về một nơi chốn như thế. Người ta vốn tự nhiên ngưỡng mộ tình thương, và họ không thích những cảm giác và hành động tổn hại như thù hận, giận dữ, chiến đấu, trộm cắp, thèm khát những sở hữu của người khác, và muốn hại người khác. Vậy nếu tình thương là cái gì tất cả nhân loại quý trọng, thì chắc chắn nó là cái chúng ta có thể khai triển nếu chúng ta cố gắng.
Nhiều người nghĩ rằng nhẫn nhục mang lấy sự thiệt thòi là một dấu hiệu của yếu đuối. Tôi nghĩ điều này sai lầm. Chính giận dữ là một dấu hiệu của yếu đuối, trong khi nhẫn nhục là một dấu hiệu của sức mạnh. Chẳng hạn, một người đang tranh luận một điểm căn cứ trên suy luận xác đáng thì tự tin và ngay cả có thể mỉm cười khi chứng minh vấn đề của mình. Trái lại, nếu những lý luận của anh ta không xác đáng và anh ta sắp mất mặt, anh ta nổi giận, mất tự chủ, và bắt đầu nói năng vô nghĩa. Người ta hiếm khi nổi giận nếu họ tự tin vào điều họ đang làm. Giận dữ đến dễ dàng hơn trong những lúc rối loạn.
22. Tôi không nổi sân với lục phủ ngũ tạng,
Nguồn gốc dồi dào của đau và khổ!
Vậy tại sao tôi oán ghét những bạn bè đồng bào của tôi,
Họ cũng là nạn nhân của những điều kiện như thế?
Khổ đau có thể đến từ những nguyên nhân có sự sống hay không có sự sống. Chúng ta có thể nguyền rủa những sự vật vô tri như khí hậu, nhưng chính với những chúng sanh có sự sống mà chúng ta thường nổi giận nhất. Nếu chúng ta phân tích những nguyên nhân có sự sống này chúng làm cho ta bất hạnh, chúng ta thấy rằng bản thân chúng lại bị ảnh hưởng bởi những điều kiện khác nữa. Chúng không làm chúng ta nổi giận chỉ vì chúng muốn như vậy. Về mặt này, bởi vì chúng bị ảnh hưởng bởi những điều kiện khác, chúng thật ra là không có hiệu lực. Bởi thế không cần phải nổi giận với chúng.
24. Không bao giờ nghĩ, “Bây giờ ta sẽ tức giận,”
Người ta bỗng bị cơn giận chụp lấy.
Cơn giận, cũng thế, thoắt đến –
Dù nó chẳng bao giờ toan tính phải được xảy ra!
25. Bất cứ sự xúc phạm nào,
Tất cả những hành vi xấu ác,
Khởi lên do nhân duyên dẫn dắt.
Không có cái nào là độc lập và tự mình.
26. Tuy nhiên những nguyên nhân này không có ý nghĩ
Là phải sanh ra một cái gì.
Và bởi thế cái được sản sanh ra
Thì vô tâm, không có ý nghĩ là được sanh ra.
Ở điểm này trong bản văn, Shantideva bác bỏ những luận cứ của những nhà Samkhya, một trong những truyền thống không phải Phật giáo của Ấn Độ cổ đại.
27. Cũng thế cái được gọi là bản chất nguyên sơ
Và cái Ngã, dầu nó là thứ gì,
Không thành hiện hữu bằng cách nghĩ
“Ta sẽ hiện hữu.”
28. Không hiện hữu, còn chưa sanh ra,
Bởi thế cái gì có thể muốn có sự hiện hữu?
Bất biến, bởi thế luôn luôn ở trong đối tượng của nó,
Nó không bao giờ có thể ngừng là như thế.
Theo Phật giáo, không có sự vật gì như vậy như là một cái sinh ra mà không có nguyên nhân. Mọi sự vật đều bị điều kiện hóa bởi cái gì khác. Điều ấy cũng áp dụng cho những hành động tiêu cực.
Theo những nhà Samkhya, có hai mươi lăm đối tượng của sự hiểu biết, trong đó cái chính yếu, bản chất nguyên sơ (Skt, prakriti), được xem là chân lý tối hậu: tối hậu, vĩnh cửu, toàn khắp và độc lập. Tất cả hiện tượng đều do bản chất nguyên sơ này tạo ra. Những nhà Samkhya cũng giả thiết sự hiện hữu một cái Ngã, hay nguyên lý ý thức (purusha), nó cũng vĩnh cửu, độc lập và kinh nghiệm những biểu lộ của bản chất nguyên sơ.(31)
Phật giáo bác bỏ khả tính của một cái gì độc lập không tùy thuộc vào một nguyên nhân. Tất cả mọi sự đều liên lập, tùy thuộc lẫn nhau. Không có hiện tượng nào sanh ra một cách tự mình, có thể nói là, thình lình quyết định rằng nó sẽ biểu lộ. Nếu bản chất nguyên sơ là nguyên nhân của mọi sự mà nó sanh ra, bấy giờ nó phải tự mình sanh ra. Nhưng vì nó không tự sáng tạo ra chính nó, làm sao nó có thể sáng tạo ra mọi sự?
Phật giáo dạy rằng mọi sự vật khởi sanh từ những nguyên nhân (nhân) và những điều kiện (duyên) và bởi thế không có sự vật nào như vậy là một nguyên nhân không có nguyên nhân. Nếu có một sự vật như vậy, bấy giờ mọi sự vật cũng có thể được nói là khởi sinh từ hư vô! Một cách độc lập, bản chất nguyên sơ thường trực khởi sanh (làm nguyên nhân tạo ra) cái gì đó. Nhưng như chúng ta có thể thấy, những hiện tượng có khi biểu lộ và khi khác thì không. Như thế bởi vì những nguyên nhân và những điều kiện mà chúng dựa vào đôi khi hội hợp còn khi khác thì không.
Nếu nguyên nhân là độc lập và có thể sáng tạo thường hằng, bấy giờ dĩ nhiên kết quả của nó cũng phải thường hằng. Vì kết quả không thường hằng, chúng ta có thể lý luận rằng nguyên nhân của chúng cũng không thường hằng: nó là vô thường. Nếu có một sự vật như thế như là một đấng sáng tạo độc lập, bởi thế nó độc nhất và toàn khắp, thì mọi biểu lộ hay kết quả của nó phải là thường hằng. Niềm tin vào một đấng sáng tạo như thế chỉ là không hợp lý luận.
Xét về cái Ngã thường hằng và bất biến, nếu nó thật là bất biến, tất cả những tri giác của nó cũng phải thường hằng, và không có thời gian nào nó không kinh nghiệm chúng. Lý luận bình thường nói với chúng ta điều đó không đúng thực. Có khi chúng ta tri giác những sự vật, có khi không. Nhưng những tri giác phải thường hằng nếu cái Ngã là một thực thể bất biến.
Theo Kinh Duyên Sanh, mọi sự vật đều khởi từ một nguyên nhân. Nhưng một nguyên nhân như thế không thể là một đấng sáng tạo thỉnh thoảng làm cho vũ trụ hiện hữu. Nguyên nhân theo định nghĩa là vô thường, và như thế chính nó phải có một nguyên nhân. Rốt ráo, một kết quả phải cùng một bản chất với nguyên nhân sanh ra nó. Tuy nhiên, nếu chúng ta tin vào một nguyên nhân thường hằng, sẽ hoàn toàn mâu thuẫn khi đồng thời tin vào sự giải thoát. (32)
Những nhà Samkhya tin rằng bản chất nguyên sơ biểu lộ ra sanh tử và rằng cái Ngã, nó được giả định là một thực tại thường hằng, trải nghiệm hạnh phúc và khổ đau trong sanh tử. Qua thiền định theo lời dạy của một vị thầy tâm linh, cái Ngã thấu hiểu rằng mọi hiện tượng là những biểu lộ của bản chất nguyên sơ. Với sự thấu hiểu này, mọi sự biểu lộ của bản chất nguyên sơ tan biến, để lại cái Ngã một mình. Trạng thái này được các nhà Samkhya cho là giải thoát. Mọi điều này hoàn toàn mâu thuẫn. Nếu chúng ta tin rằng nguyên nhân của sanh tử luân hồi, bản chất nguyên sơ, là thường hằng, thì làm sao chúng ta có thể giải thích sự giải thoát?
31. Như vậy mọi sự vật tùy thuộc vào một cái khác.
Dựa trên điều này là sự kiện rằng không có cái gì là độc lập.
Biết thế, chúng ta chúng ta sẽ không bị phiền nhiễu nơi những đối tượng
Chúng giống như những xuất hiện của huyễn thuật.
Đây là lý do tại sao chúng ta nói rằng tất cả chúng sanh bị ảnh hưởng bởi những cái khác, nghĩa là những thức tình của riêng chúng, và như thế không độc lập. Tiến trình của nguyên nhân dẫn đến kết quả là do sự hội hợp của những điều kiện. Không có gì độc lập. Nếu chúng ta hiểu điều này, bấy giờ sướng và khổ mà bình thường chúng ta tri giác như là thật và cứng đặc sẽ được thấy như cái gì không có bản chất, như ảo ảnh huyễn thuật. Trong ánh sáng này, chúng ta không phải mệt mỏi nổi giận với ai nữa cả.
Vài người có thể nghĩ, Nếu mọi sự là huyễn, thì ích gì thoát khỏi khổ đau như huyễn bằng một đối trị mà bản thân nó cũng là huyễn? Câu trả lời là cái khổ đau như huyễn này là kết quả của những nguyên nhân và điều kiện chúng cũng là huyễn. Ngay dù đau đớn là huyễn, chúng ta còn khổ sở vì nó, và chắc chắn chúng ta không muốn nó. Hạnh phúc cũng như vậy. Nó là một sự huyễn, nhưng vẫn còn là một cái gì chúng ta muốn. Như thế, những đối trị như huyễn được dùng để thoát khỏi những khổ đau như huyễn, giống như là một nhà huyễn thuật dùng một huyễn thuật này để chống lại một huyễn thuật khác. Đây thực là một điểm quan trọng được giải thích rất chi tiết ở chương chín của Bồ Tát Hạnh.
33. Như thế, khi những kẻ thù hay bạn quý
Được thấy là có hành động không thích đáng,
Hãy thanh thản và tự nhủ,
Điều này đến từ nhân duyên như vậy như kia.”
Chúng ta hãy xem mọi sự, dầu thân quý hay thù nghịch, là một trò huyễn hóa, và không nhọc công phản ứng lại với quyến luyến hay giận dữ.
34. Nếu sự vật xảy ra chỉ để cho sự thích muốn của chúng ta,
Thì tại sao đau buồn cứ đến
Với không trừ một ai trong chúng sanh?
Bởi vì chẳng có ai muốn khổ cả.
38. Trong móng vuốt của những tình thức nhiễm ô
Có những người còn giết cả chính họ:
Dù chúng ta có ngèo nàn lòng thương xót
Thì ít nhất chúng ta cũng tránh sân hận.
Nếu tất cả chúng ta có một chọn lựa giữa hạnh phúc và khổ đau, không ai chọn khổ đau, và sẽ không có khổ đau trong thế gian này. Nhưng bởi vì mọi sự là liên lập và phụ thuộc vào những nguyên nhân khác, nên cả hai hạnh phúc và khổ đau đều có mặt. Người ta khổ đau mà không muốn nó. Và khi tâm thức không được kiểm soát, khi chúng ta bị ảnh hưởng bởi thù ghét, chúng ta tự hại cả chính mình. Nếu chúng ta có thể tự hại mình với thù ghét như vậy, chắc chắn chúng ta có thể làm hại những người khác.
39. Nếu những người như những đứa trẻ vô tâm
Bản chất ưa làm hại những người khác
Ích gì khi sân hận với họ
Khác gì ghét lửa vì sức nóng của nó!
40. Và nếu những lỗi lầm đó là thoáng chốc và ngẫu nhiên,
Nếu chúng sanh bản chất là xấu xa,
Thật vô lý khi sân hận với họ –
Cũng như nổi giận với bầu trời vì nó có những đám mây!
Chúng ta phải bi mẫn và không bao giờ sân hận đối với những người đang làm hại chính họ. Và khi những người khác hại chúng ta, chúng ta nên xét lại đó là do bản chất ưa làm điều hại của họ hay chỉ là cái gì nhất thời. Nếu là bản chất họ, bấy giờ không ích gì mà nổi giận. Nếu nó chỉ là sự nhất thời, bản chất họ không xấu, và họ chỉ làm hại chúng ta vì những ảnh hưởng tạm thời. Cũng lại như vậy, có ích gì nổi giận với họ đâu.
Nếu có ai dùng một vũ khí để làm thương tổn chúng ta, sự vật thực sự làm chúng ta bị thương là vũ khí. Cái gián tiếp làm chúng ta bị thương là cơn giận của người ấy. Vậy nếu phải nổi giận, chúng ta nên nổi giận với cái vũ khí hay với cơn giận nó là lý do cho việc vũ khí được sử dụng. Ngoài vũ khí và cơn giận của người, không có ai còn lại để giận dữ với.
43. Những vũ khí của họ và thân thể tôi:
Cả hai là những nguyên nhân của khổ đau của tôi!
Họ thì rút kiếm còn tôi thì hươi thân.
Ai đáng để giận hơn cho cơn giận của tôi?
Vì mọi sự đều do nhiều nguyên nhân, chỉ nổi giận với một cái thì vô lý.
47. Những người làm hại tôi khi chống lại tôi
Đều được mời đến do nghiệp xấu của tôi.
Rồi họ sẽ phải đi vào địa ngục,
Như thế không phải tôi là người làm hại họ sao?
Những điều ác người khác gây cho chúng ta là kết quả trực tiếp của những hành động quá khứ của chúng ta. Thật ra những hành động này (nghiệp) đã khiến cho những đối thủ của chúng ta làm hại chúng ta. Từ quan điểm này, chính chúng ta đang làm hại đối thủ của chúng ta, vì trong tương lai họ sẽ khổ đau bởi hành động làm hại mà chính chúng ta là người xúi dục, mời gọi.
Khi những người khác làm hại chúng ta, chúng ta có được dịp may thực hành đức nhẫn nhục và như thế tịnh hóa nhiều nghiệp xấu và tích tập nhiều công đức. Bởi vì chính những kẻ thù của chúng ta cho chúng ta cơ may lớn lao này, họ thật sự đang giúp đỡ chúng ta. Nhưng bởi vì họ đang phạm vào những hành động tiêu cực mà chúng ta là nguyên nhân của chúng, chúng ta quả thật đang làm hại họ. Thế nên nếu có tức giận với ai, kẻ đó phải là chính chúng ta. Chúng ta không bao giờ nên nổi giận với những kẻ thù của chúng ta, không kể đến thái độ của họ, bởi vì họ thực sự làm ích lợi cho chúng ta.
Bởi thế, người ta nên tự hỏi, bằng cách khiến cho những kẻ thù của chúng ta tích tập những hành động xấu như thế, chính chúng ta đang tích tập những hành động xấu hay những kẻ thù của chúng ta trong khi giúp đỡ chúng ta thực hành nhẫn nhục như thế, họ đã tích tập những hành động tốt. Không phải như vậy. Dù chúng ta đã là nguyên nhân cho hành động xấu của họ, nhưng nhờ thực hành nhẫn nhục, chúng ta thực sự tích tập công đức và sẽ không tái sanh trong các cõi thấp. Chính chúng ta nhẫn nhục, và không giúp đỡ kẻ thù của chúng ta làm những chuyện xấu. Ngược lại, nếu chúng ta không thể nhẫn nhục khi bị hại, bấy giờ sự làm hại của những kẻ thù của chúng ta sẽ không giúp gì cho ai cả. Hơn nữa, nếu mất nhẫn nhục và nổi giận, chúng ta vi phạm lời thệ nguyện tuân thủ giới luật của một Bồ tát.
52. Tâm thì không có hình thể:
Không ai có thể hủy hoại được nó.
Tuy nhiên nó bám níu mãnh liệt cái thân
Và đọa thành nạn nhân cho sự đau đớn của thân.
Vì tâm không là một sự vật vật chất, không ai có thể làm hại nó. Khi những người khác nói đến những điều khó chịu với chúng ta, họ không làm thương tổn chúng ta một cách vật chất. Nếu chúng ta nghĩ về điều ấy, thì không có gì là khó chịu đựng. Chúng ta có thể nghĩ rằng nếu chúng ta tỏ ra khoan dung khi người ta nói những điều xấu xa về chúng ta, điều ấy sẽ được nghĩ là họ nói đúng và tai hại gây ra cho thanh danh của chúng ta sẽ ngăn trở sự thành công của chúng ta trong cuộc đời. Nhưng không có gì không hay trong đó cả. Dù chúng ta có nhiều danh tiếng và ca ngợi, chúng ta cũng chỉ hưởng được trong đời này. Trái lại, nếu chúng ta nổi giận, nghĩ rằng họ làm hại thanh danh và sự thành công của chúng ta trong đời này, thì những hành động xấu chúng ta tích tập như vậy sẽ theo chúng ta cho đến những đời sau.
62. Nếu khi những người khác phỉ báng bạn, bạn biện hộ
Rằng sự giận dữ của bạn là bởi vì họ hại chính họ,
Thế tại sao bạn không giận ghét
Sự phỉ báng mà những người khác là nạn nhân?
Khi người ta nói những điều khó chịu về chúng ta, nếu chính những điều xấu xa tự chúng làm chúng ta nổi giận, bấy giờ chúng ta cũng phải nổi giận khi những điều xấu xa được nói về kẻ khác. Bởi vì trường hợp là như nhau trong những điều khó chịu này.
Nhưng khi những điều khó chịu được nói về người khác, điều thường xảy ra là chúng ta cũng góp phần chỉ trích vào những nguyên nhân không liên hệ gì đến chúng ta và chúng ta thản nhiên. Tại sao chúng ta không áp dụng cùng một luận điệu khi chính chúng ta là đối tượng của sự chỉ trích? Khi có người nào đó bị ảnh hưởng bởi những hành động xấu nói những điều xấu xa về chúng ta, tại sao chúng ta cho phép chúng ta nổi giận? Rốt lại, chính những tình thức tiêu cực, chớ không phải con người, là chịu trách nhiệm về sự tấn công. Và lại nữa, nếu chúng ta không nổi giận khi người khác bị chỉ trích, sẽ tiếp theo chúng ta cũng khoan dung những người nhục mạ Phật, đập phá tượng, thiêu hủy chùa chiền, phỉ báng những bậc thầy vĩ đại…
64. Ngay cả những người phỉ báng và phá hủy
Thánh Pháp, tháp, tượng, kinh sách
Cũng không phải đích thị là những đối tượng cho sự giận dữ của tôi:
Chư Phật không bị hại bằng cách ấy.
74. Vì những mục tiêu tham muốn,
Tôi đã chịu đựng một ngàn lần lửa đốt
Và những đau đớn khác của địa ngục,
Mà chẳng làm được cái gì cho chính tôi và người khác.
75. Những đau đớn bây giờ không là cái gì so với những cái ấy,
Tuy nhiên có những lợi lạc lớn lao tăng trưởng từ chúng.
Những khổ não này, nó xua tan những phiền não của tất cả chúng sanh
Tôi chỉ nên tùy hỷ với chúng.
Chẳng hạn nếu một người bị kết tội chết được miễn bằng cách đổi lấy phải chặt tay, nó sẽ cảm thấy rất nhẹ nhõm. Tương tự, khi chúng ta có dịp may để tịnh hóa một khổ đau lớn lao bằng cách nhẫn nhục một thương tổn nhẹ, chúng ta nên chấp nhận nó. Nếu, không thể nhẫn nhục nổi những nhục mạ, chúng ta nổi giận, chúng ta chỉ tạo thêm khổ đau tệ hơn cho tương lai. Dầu khó khăn chăng nữa, chúng ta cũng nên cố gắng mở rộng viễn cảnh của chúng ta và không trả đũa.
Chúng ta đã và còn trải qua khổ đau không dứt mà không rút ra được lợi lạc nào từ nó. Từ bây giờ, chúng ta đã nguyện hứa tốt lòng, chúng ta nên cố gắng không nổi giận khi những người khác nhục mạ chúng ta. Nhẫn nhục có thể không dễ dàng. Nó đòi hỏi sự tập trung đáng kể. Nhưng kết quả mà chúng ta thành tựu qua việc nhẫn nhục những khó khăn này sẽ là cao siêu. Đó là cái gì nên hoan hỷ!
79. Khi những lời khen ngợi được dồn lên những công đức của tôi
Tôi muốn những người khác đều tùy hỷ với chúng;
Tuy nhiên khi người nào khác được xưng tán,
Sự hoan hỷ của tôi thì chậm chạp và miễn cưỡng.
Khi người nào chúng ta không thích được xưng tán, thường thì chúng ta trở nên ghen tuông. Đây là một sai lầm. Khi những điều tốt đẹp được nói về những người khác, chúng ta nên cố gắng tham dự. Bấy giờ chúng ta cũng có thể ít vui. Vậy tại sao không tùy hỷ? Nếu chúng ta có thể vui theo và cảm thấy một cảm giác thỏa mãn khi những người chúng ta không thích được tán tụng, niềm hạnh phúc mà chúng ta có thì thực sự tích cực và được chư Phật bằng lòng. Khi chúng ta thực hành như vậy, ngay cả kẻ thù cũng tán thưởng chúng ta. Đây là một trong những cách tốt nhất để có được sự kính trọng của những người khác.
80. Bởi vì tôi muốn hạnh phúc cho chúng sanh,
Tôi đã nguyện giác ngộ vì họ
Vậy khi thấy họ tìm được niềm vui cho chính họ,
Tại sao tôi lại khó chịu vì những người đó?
Nếu chúng ta không thể tán thưởng và tùy hỷ với hạnh phúc người nào có khi tán dương người khác, thì cuối cùng chúng ta sẽ không chịu nổi, bao dung nổi ngay cả một niềm vui nhỏ nhất của bất cứ ai khác. Nếu như vậy, đáng lẽ chúng ta nên từ bỏ mọi thứ có thể giúp đỡ cho những người khác và ngay cả không bao giờ cho món gì, từ chối nhận bất cứ thứ gì nó làm vui lòng họ. Nếu chúng ta hoan hỷ khi được xưng tán, thì chúng ta đã sai lầm mà nổi giận khi ai đó xưng tán những người khác và rút ra được niềm vui từ việc ấy.
83. Nếu ngay cả điều này tôi không muốn dành cho chúng sanh,
Làm sao tôi có thể muốn Phật tánh cho họ?
Làm sao một người có thể có Bồ đề tâm,
Nếu nó giận dữ bởi sự tốt đẹp mà những người khác có?
Vì chúng ta đã phát thệ nguyện đạt đến toàn giác cho tất cả chúng sanh, khi những người này có một ít hạnh phúc về phần họ, hoan hỷ thì khôn ngoan hơn là tức giận. Chúng ta đã tự nhận trách nhiệm xua tan mọi khổ đau và thành tựu mọi hạnh phúc, thì những người khác hạnh phúc, trách nhiệm của chúng ta đã bớt đi. Nhưng nếu chúng ta không thể chịu nổi việc những người khác được hạnh phúc, làm sao chúng ta tự cho là đang kiếm tìm Phật tánh?
Khi những sự việc không tốt đến cho người nào chúng ta không thích, có gì để hoan hỷ? Không làm cho sự khổ đau hiện thời của nó tệ thêm, và nếu nó tệ thêm, đáng buồn biết bao nếu chúng ta mong muốn một việc như thế.
90. Những chuyện vô ích của xưng tán và thanh danh
Chẳng dùng được gì để tăng thêm công đức hay mạng sống;
Chẳng ban cho sức khỏe cũng không sức mạnh,
Nó không góp gì cho sự thong dong của thân.
Chỉ được xưng tán thực chất chẳng giúp được chút gì: nó không tăng thêm vận may của con người, cũng không làm cho họ sống lâu hơn. Nếu thích thú tạm thời là tất cả điều bạn muốn, bạn dám dùng á phiện lắm. Nhiều người đầu tư nhiều tiền và ngay cả lừa gạt bạn bè để dành được địa vị cao. Điều này hoàn toàn xuẩn ngốc. Địa vị và danh tiếng của họ không thực sự giúp gì nhiều trong cuộc đời này và chẳng là gì cho những đời sắp tới. Không có gì đặc biệt để hạnh phúc nếu chúng ta có danh tiếng hay bất hạnh vì người ta nói xấu về chúng ta.
93. Những trẻ nít không thể nín khóc
Khi lâu đài cát của chúng sụp đổ.
Tâm của chúng ta cũng như chúng nó
Khi xưng tán và danh vọng bắt đầu suy sụp.
94. Âm thanh ngắn ngủi, vô tri, như tiếng vang,
Tự chính nó chẳng bao giờ có thể có ý định khen tặng chúng ta.
“Nhưng nó là sự hoan hỷ người khác đưa vào trong tôi,” bạn nói.
Những thứ ấy là những nguyên nhân nghèo nàn cho niềm vui của bạn sao?
95. Tôi có gì đâu nếu những người khác sung sướng
Khi họ xưng tán người nào hay chính tôi?
Niềm vui của họ chỉ thuộc về họ;
Có phần nào trong đó cho sự hoan hỷ của tôi đâu?
Những lời tốt đẹp xưng tán thì vô tâm: chúng không có ý muốn nói những sự tốt về chúng ta. Những ý định tốt đẹp người khác có trong việc tán dương chúng ta là những ý định tốt đẹp của chính họ, không phải của chúng ta! Nếu chúng ta sung sướng vì những người khác nói những điều đáng ưa về chúng ta, thì chúng ta cũng nên sung sướng khi họ nói tương tự về những kẻ thù của chúng ta. Chúng ta cần đối xử bình đẳng với tất cả mọi người.
98. Xưng tán và khen ngợi quấy nhiễu tôi.
Chúng làm yếu đi sự ghê sợ của tôi đối với sanh tử.
Tôi bắt đầu ghen tỵ với những phẩm chất của người khác,
Và mọi công đức do đó sẽ hư hao.
Tán dương, nếu bạn nghĩ về nó, thực sự là một phóng dật. Ví dụ, lúc ban đầu người ta có thể là một tu sĩ giản dị, khiêm tốn, tri túc. Sau đó, người khác có thể nói những điều nịnh hót như, “Ông ấy là một lama,” và người ta bắt đầu cảm thấy một ít kiêu hãnh hơn và trở nên tự ý thức phải nhìn ngó và đối xử làm sao. Rồi tám mối bận tâm thế gian trở nên mạnh hơn, phải thế không? Tán dương là một phóng dật và hủy hoại sự từ bỏ.
Lại nữa, mới đầu khi chúng ta có ít, chúng ta không có nhiều lý do cho một cảm giác cạnh tranh với những người khác. Nhưng về sau, khi “người tu sĩ bắt đầu mọc tóc,” nó trở nên tự phụ, và khi có ảnh hưởng hơn, nó ganh đua với người khác để có những địa vị quan trọng. Chúng ta cảm thấy ghen tỵ với người nào có những phẩm tính tốt đẹp, và cuối cùng cái này hủy hoại bất cứ phẩm tính tốt đẹp nào chúng ta đã có. Được tán dương không thực sự là chuyện tốt, và nó có thể là nguồn gốc cho những hành động tiêu cực.
99. Nên những người nào ở sát bên tôi
Để hủy hoại tiếng tốt của tôi và gọt giũa cho tôi –
Chẳng phải họ không phải là những người bảo vệ
Cho tôi khỏi sa vào những cảnh giới đau buồn sao?
Vì mục đích thật sự của chúng ta là giác ngộ, chúng ta không nên giận dữ với kẻ thù của mình, thật ra họ xua tan chướng ngại cho sự đạt đến giác ngộ của chúng ta.
101. Họ, như sự ban phước lành của Phật
Đóng chặn đường tôi, cũng cương quyết như tôi
Để tôi không phóng mình vào khổ não
Có thể nào tôi giận dữ với họ?
102. Chúng ta chớ nóng giận, nói rằng,
“Họ là những chướng ngại cho việc thực hành đức hạnh.”
Nhẫn nhục là khổ hạnh không gì sánh,
Và đó chẳng phải là con đường tôi đã chọn sao?
Không ích gì bào chữa cho mình, nói rằng những kẻ thù của tôi ngăn chặn tôi tu hành và bởi thế mà tôi tức giận. Nếu chúng ta thực sự muốn tiến bộ, thì không có thực hành nào quan trọng hơn nhẫn nhục. Chúng ta không thể cho mình là những hành giả nếu chúng ta không có nhẫn nhục.
Nếu chúng ta không thể chịu đựng sự gây hại mà những kẻ thù của chúng ta làm cho chúng ta và thay vào đó lại nổi giận, thì chính chúng ta là sự chướng ngại cho sự thành tựu một hành động vô cùng tích cực. Không có gì hiện hữu mà không có một nguyên nhân, và không thể có sự thực hành nhẫn nhục mà không có người nào làm hại chúng ta. Vậy làm sao chúng ta có thể gọi họ là những chướng ngại cho việc thực hành nhẫn nhục, nó là nền tảng trong con đường Đại thừa? Chúng ta khó có thể gọi một người ăn xin là một chướng ngại cho lòng rộng lượng bố thí.
Có nhiều lý do cho lòng từ thiện; thế giới thì đầy những người nghèo túng. Mặt khác, những người làm chúng ta tức giận và thử sự nhẫn nhục của chúng ta thì tương đối hiếm, đặc biệt là khi chúng ta không làm hại ai. Bởi thế khi chúng ta gặp những kẻ thù hiếm hoi này chúng ta cần tán thưởng họ.
107. Như một kho tàng tìm thấy ngay trong nhà,
Làm cho tôi giàu có mà không phải mệt sức,
Những kẻ thù là những người giúp đỡ trong cuộc đời Bồ tát.
Họ phải là một thích thú và niềm vui cho tôi.
Khi chúng ta nhẫn nhục đối với những kẻ thù, chúng ta cần hồi hướng kết quả của sự thực hành này cho họ, bởi vì họ là những nguyên nhân của kết quả đó. Họ đã rất tốt với chúng ta. Chúng ta có thể hỏi, Tại sao họ xứng đáng với sự hồi hướng này khi họ không có ý định làm cho chúng ta thực hành nhẫn nhục? Nhưng những sự vật có cần phải có một ý định trước khi chúng xứng đáng cho sự kính trọng của chúng ta đâu? Bản thân Pháp, chỉ ra sự dừng dứt của khổ và là nguyên nhân của hạnh phúc, chẳng có ý định giúp chúng ta, tuy nhiên chắc chắn nó xứng đáng được kính trọng.
Chúng ta có thể nghĩ, những kẻ thù của chúng ta là không xứng đáng bởi vì họ tích cực muốn làm hại chúng ta. Nhưng nếu người nào tốt và có ý định tốt như một y sĩ, thì làm sao chúng ta có thể thực hành nhẫn nhục? Và khi một y sĩ, có ý định chữa lành cho chúng ta, làm chúng ta bị thương bằng cách cắt bỏ, mổ ra, hay đâm chúng ta với kim, chúng ta không nghĩ người ấy là một kẻ thù và nổi giận với ông. Như thế, chúng ta không thể thực hành với người ấy. Nhưng kẻ thù là những người có ý định hại chúng ta, và chính vì lý do đó mà chúng ta có thể thực hành nhẫn nhục với họ.
111. Nhờ những thái độ thù ghét cay đắng,
Tôi phát sinh nhẫn nhục trong chính mình.
Như thế họ là nguyên nhân đích thật của nhẫn nhục,
Đáng để tôn kính như với Giáo Pháp.
112. Tất cả chúng sanh và chư Phật đều bình đẳng như vậy
Là những ruộng công đức, Thế Tôn đã nói.
Nhiều người tìm kiếm hạnh phúc cho những người khác
Đã siêu vượt mọi hoàn thiện.
Có hai miếng ruộng qua đó chúng ta có thể tích tập công đức: chúng sanh và chư Phật. Chính với sự trợ giúp của chúng sanh, dầu họ có thảm não và thiếu đạo đức chăng nữa, mà chúng ta có thể tích tập những hành động tích cực, khai triển Bồ đề tâm, thực hành sáu ba la mật, và đạt được những phẩm tính của niết bàn. Không có chúng sanh, chúng ta không thể có lòng bi, và không có lòng bi chúng ta không thể thành tựu giác ngộ tối thượng mà sẽ rơi vào cực đoan của niết bàn. Thế nên sự đạt đến giác ngộ tối thượng và sự thấu hiểu chúng ta có được trên con đường đều nhờ vào chúng sanh cũng như vào chư Phật. Sai lầm khi tách biệt hai cái đó, nói rằng chư Phật thì cao siêu và chúng sanh thì thấp kém. Vì cả hai đều cần thiết cho sự đạt được giác ngộ của chúng ta, tại sao chúng ta không kính trọng chúng sanh như kính trọng chư Phật?
114. Dĩ nhiên mục tiêu của họ không giống nhau,
Nhưng chính do kết quả họ mang lại mà họ được so sánh.
Bấy giờ, đây chính là sự tuyệt hảo của những phẩm tính của chúng sanh.
Thật vậy, chúng sanh và chư Phật là như nhau!
Dĩ nhiên, họ không bình đẳng trong những phẩm tính đã thành tựu. Nhưng trong ý nghĩa chúng sanh có tiềm năng để tham dự vào sự tích tập công đức và đạt được giác ngộ của chúng ta, chúng ta có thể nói rằng họ bình đẳng.
119. Vì chư Phật là những người bạn vĩnh hằng của tôi,
Vô biên là những lợi lạc các ngài đem đến cho tôi,
Làm sao tôi có thể đền đáp lòng tốt của các ngài,
Ngoài sự làm cho tất cả chúng sanh hạnh phúc?
122. Chư Phật hạnh phúc bởi hạnh phúc của chúng sanh;
Buồn phiền và đau xót khi chúng sanh đau khổ.
Làm cho chúng sanh hạnh phúc, tôi cũng làm vui lòng chư Phật;
Não hại chúng sanh, tôi cũng đồng thời não hại chư Phật.
Nếu chúng ta thực sự quy y nơi chư Phật, bấy giờ chúng ta phải tôn trọng ý muốn của các ngài. Dù sao chăng nữa, trong đời sống bình thường, thật tự nhiên khi trong một cách nào tùy thuận theo những người bạn của mình và tôn trọng ước muốn của họ. Khả năng làm được như vậy được xem là một phẩm tính tốt. Thật là buồn khi một mặt chúng ta nói rằng chúng ta quy y Phật, Pháp, Tăng với sự sùng mộ thật lòng, nhưng mặt khác, trong hành động, chúng ta không biết một cách khinh xuất điều làm cho các ngài phật lòng. Chúng ta đã được chuẩn bị để thích ứng với những tiêu chuẩn của người bình thường nhưng không phải với những tiêu chuẩn của chư Phật và chư Bồ tát. Khốn khổ thay! Nếu chẳng hạn, một người Thiên Chúa giáo thực sự thương yêu Thiên Chúa, bấy giờ người ấy phải thực hành tình thương cho tất cả nhân loại bè bạn. Khác đi, người ấy không theo tôn giáo của mình được: lời nói và việc làm của người ấy trái nghịch nhau.
127. Sự tôn kính và phụng sự chúng sanh sẽ làm chư Phật hoan hỷ,
Đem lại một cách tuyệt vời an lạc cho chính tôi;
Như vậy nó sẽ xua đuổi buồn khổ ra khỏi thế gian,
Và bởi thế, đó sẽ là sự thực hành thường hằng của tôi.
Những đại sứ của một nhà vua hay một tổng thống, chẳng hạn, phải được kính trọng, dù họ có vẻ kém gây ấn tượng thế nào, bởi vì họ đại diện cho cả một đất nước. Tương tự, tất cả chúng sanh, dầu có khốn khổ hạ tiện thế nào, cũng ở dưới sự che chở bảo bọc của chư Phật và chư Bồ tát. Bởi thế, trực tiếp làm hại chúng sanh, tức là chúng ta gián tiếp làm khổ não chư Phật và chư Bồ tát. Đây là điểm chúng ta phải rất thận trọng.
Nếu chúng ta có thể làm vui lòng chúng sanh, khỏi cần nói rằng điều ấy sẽ góp phần cho sự đạt đến toàn giác của chúng ta. Ngay trong đời này, chúng ta sẽ hạnh phúc và thong dong, được người nghĩ tốt, và có nhiều bè bạn. Trong những đời sau, chúng ta sẽ trông ưa nhìn, mạnh mẽ, sức khỏe tốt, và chúng ta sẽ tái sanh trong những cõi cao, với tám phẩm tính là kết quả của những hành động tích cực. Dưới những điều kiện thuận lợi như thế, chúng ta cuối cùng sẽ đạt đến giác ngộ. Thế nên, giúp đỡ những người khác là nền tảng cho con đường đến Phật tánh.
Chương rất quan trọng này về nhẫn nhục là nền tảng cho chương tám, nó chỉ bày làm thế nào chúng ta có thể làm lợi lạc cho những người khác qua sự thấu hiểu những phẩm tính của lòng vị tha và sự tai hại của tính chấp ngã.
Tổng quát, chính cái ý niệm về kẻ thù là chướng ngại chính cho Bồ đề tâm. Nếu chúng ta có thể chuyển hóa một kẻ thù thành một người mà chúng ta cảm thấy kính trọng và biết ơn, bấy giờ sự thực hành của chúng ta sẽ tiến bộ tự nhiên, giống như nước chảy theo một kinh dẫn đào trong đất.
Nhẫn nhục nghĩa là không tức giận với những người làm hại chúng ta và thay vào đấy là có lòng bi mẫn cho họ. Như vậy không phải là nói rằng chúng ta nên để cho họ muốn làm gì thì làm. Chẳng hạn những người Tây Tạng chúng tôi, đã chịu đựng những gian khổ lớn lao từ bàn tay của những người khác. Nhưng nếu chúng tôi tức giận họ, chúng tôi chỉ có thể là những người thua cuộc, thiệt hại. Đấy là lý do tại sao chúng tôi thực hành nhẫn nhục. Nhưng chúng tôi không để cho áp bức và bất công được tiến hành mà không loan báo.