CHƯƠNG IX: KARMAPA WANGCHUK DORJE (1555-1603)
Karmapa thứ chín, WANGCHUK DORJE, sanh tháng 7 năm 1555. Kể lại rằng ngay khi vừa sanh ra, ngài chùi mặt ba lần rồi nói: “Ta là Karmapa.” Đứa bé nhanh chóng nổi tiếng và tin tức về em đến với Situ Rinpoche ở tu viện Karma. Vì hoàn cảnh đứa bé sanh ra trùng hợp các chi tiết chứa đựng trong lời tiên tri được Mikyo Dorje viết lại khi ngài hai mươi tám tuổi, Situ Rinpoche gởi hai phụ tá đến kiểm tra đứa bé. Các phụ tá báo về họ vui mừng rằng quả thật đứa bé là Karmapa. Situ Rinpoche lên báo cho các viên chức chùa Tsurphu là vị Karmapa mới đã được tìm thấy.
Chiếc mũ đen, dấu ấn, y áo và vài đồ dùng hành lễ của các Karmapa được gởi từ Tsurphu đến chùa Karma. Đứa bé nhận đúng ra cái chuông, vốn thuộc về Chodrag Gyaltsho, vị Karmapa thứ bảy. Năm sau, Shammar Konchog Yenlag gởi các đồ vật hành lễ đã được Mikyo Dorje truyền lại cho ngài. Cũng cùng lúc các viên quan chức vùng trung Tây Tạng gởi những bức thư có thẩm quyền công nhận hậu thân mới của Karmapa. Điều này phản ảnh thế lực và ảnh hưởng chính trị của Karmapa vào thời đó. Dần dần các tông phái khác nhau dầu cố tình hay vô tình đều ảnh hưởng đến lãnh vực chính trị. Đây là một khuynh hướng quan trọng trong thời rối ren của ba vị Karmapa sắp tới.
Năm lên sáu, Wangchuk Dorje được chính thức lên ngôi do Shamar Rinpoche làm lễ. Ngài cũng thọ quy y và Bồ tát nguyện, thọ pháp A Di Đà cũng như nhiều kinh điển, thọ pháp và các giáo huấn. Shamarpa tiếp tục dạy vị Karmapa nhỏ tuổi, trao cho ngài nhiều bản văn từ Tam Tạng và của phái Kagyu. Trong thời gian này, lều trại tu viện dần dần chuyển về Tsurphu. Trên đường đi, Wangchuk Dorje đi với Shamar Rinpoche đến Kampo Nenang, nơi Dusum Khyenpa đã từng thiền định.
Cuộc du hành tiếp tục đi qua vùng Sumang và Nangchen, đến Tshurphu đầu năm 1561. Trong buổi giảng pháp đầu tiên, Wangchuk Dorje dạy về Bốn Pháp của Gampopa (1) cho một ngàn tám trăm vị tăng và nhiều đại biểu chính trị của miền trung Tây Tạng. Rồi có Sharmapa và Pawo Rinpoche đi cùng, vị Karmapa nhỏ tuổi du hành đến miền nam Tây Tạng. Lều trại dừng ở chùa Lekshay Ling, ở đó ngài cúng lễ xá lợi của vị Karma Thinleypa đầu tiên. Đoàn đến Lhodrak, quê nhà của Marpa, vị cha của dòng Kagyu. Pawo Rinpoche và Shama Rinpoche cử hành lễ thọ giới Sa di cho vị Karmapa nhỏ tuổi. Hai vị thầy dạy cũng bắt đầu dạy cho ngài các giáo huấn về Đại Ấn và Sáu giáo pháp của Naropa.
Phần lớn tuổi thơ của Wangchuk Dorje trải qua các cuộc du hành cùng với lều trại của mình. Tu viện du mục này rất chặt chẽ trong kỷ luật và mãnh liệt trong tu hành. Những học giả trong đoàn thì tập trung vào việc nghiên cứu Hevajra Tantra và Cakrasamvara Tantra, Uttaratantra Sastra của Maitreya, và Zabmo Nangdon của Rangjung Dorje. Những hành giả cao cấp của tu viện du mục thì thực hành Sáu Yoga của Naropa, Đại Ấn và Chod. Những hành giả bình thường và tu sĩ của trại thì tham thiền về Vajrayogini, Quán Thế âm và Hayagriva. Để được chấp thuận đầy đủ cho vào đoàn du tu này, mỗi thành viên phải hoàn thành xong một số lớn thực hành tâm linh.
Ở tu viện Yangbachen của Shamar Rinpoche, ngài dạy chư tăng nhiều giáo huấn. Ngài trải qua ba tháng nơi cung của hoàng tử ở Rinpung. Ở đây, ngài được Lạt ma Sonam Gyaltsho viếng thăm, vị này là trưởng của phái Gelugpa. Sau này, Sonam Gyaltsho nhận tước vị Đạt Lai Lạt Ma (Vị Guru rộng như biển) từ Hoàng đế người Mông Cổ là Aarten Khan.
Ngài đi qua tỉnh Kongpo miền nam Tây Tạng, đây luôn luôn là cứ địa của phái Kamtshang và Drukpa Kagyu. Shamarpa dạy ngài những giáo huấn của Rangjung Dorje và Mikyo Dorje khi đang di chuyển.
Thêm vào việc học, ngài còn dấn thân vào việc hòa giải, trọng tài cho các xung đột ở địa phương. Dời trại về phía nam Tsari, ngài lại đón nhận một cuộc viếng thăm của Sonam Gyaltsho, vị này yêu cầu ngài giảng hòa một một cãi cọ ở tỉnh Yarlung. Hai vị Lạt ma cùng nhau đem lại một hòa ước ba năm rồi ra đi sau khi trao quà tặng cho nhau.
Năm 1580, ngài nhận Tỳ kheo giới từ Shamar Rinpoche. Sau đó, ngài nghiên cứu Luật tạng và giáo pháp của các vị Karmapa thứ năm, thứ sáu và thứ bảy. Cùng với các giáo huấn phái Kamtshang Kagyu này, ngài còn nhận những truyền bản của phái Drigung Kagyu và Kadampa từ Shamar Rinpoche.
Năm 1583, Shamar Rinpoche tịch. Ngài thờ xá lợi của vị Guru trong một cái tháp ở chùa Yangbachen. Ngài phân chia tài sản của Shamarpa cho các chùa ở U và Tsang, tặng quà và trà cho các người nghèo và một mạn đà la bằng vàng cho ngôi chùa lớn ở Lhasa. Sau một chuyến hành hương đến các nơi linh thiêng miền bắc Tây Tạng, ngài trở về Tsurphu, ở đó ngài truyền các bản văn của Mikyo Dorje và truyền thống Drigung Kagyu cho Tulku Pawo. Ngài cũng truyền giới cho nhiều vị tăng và hoàn thành một tấm thangka bằng lụa khổng lồ họa hình đức Thích Ca.
Thế rồi ngài thấy cần phải đến Rinpung, ở đó ngài dàn xếp các khó khăn chính trị. Karmapa lấy làm buồn vì những xáo trộn chính trị trong thời ngài. Ngài thấy rằng sự nhớ lại thời kỳ trước của Phật giáo Tây Tạng sẽ khêu gợi một sự quy hướng mới về những thông điệp khai hóa văn minh của giáo pháp. Để theo đuổi mục đích này, ngài tìm cách trùng tu các ngôi chùa được xây bởi các nhà vua Phật tử thời kỳ đầu, như Srongtsen Gampo và Trisong Detsun.
Sau khi xuất gia cho Tulku Pawo thứ ba là Tsuglak Gyaltsho, ngài ẩn tu một năm ở Tsurphu. Rồi ngài đi một vòng miền bắc Tây Tạng, ở đó người ta nói rằng Long vương cúng dường cho ngài, biểu lộ sự hồi hướng lãnh thổ về cho Karmapa. Năm ấy, thời tiết thuận lợi, mùa màng sung mãn chứng minh sự cúng dường này.
Dầu không là một tác giả viết nhiều như Karmapa đời trước, ngài cũng tạo những bản văn quan trọng, trong đó có một luận giải về quan điểm Nhất Niệm của phái Drigung. Cuốn sách quan trọng nhất của ngài là “Đại dương của xác tín,” gồm nghi thức của các thực hành sơ khởi của Đại Ấn. Một tác phẩm quan trọng khác là “Xóa sạch bóng tối của vô minh,” cũng đề cập đến Đại Ấn. Cả hai cuốn này đều thịnh hành cho đến ngày nay.
Wangchuk Dorje dấn thân mạnh mẽ vào công việc tôn giáo cũng như xã hội. Ở Nagakphu ngài làm lễ xuất gia cho nhiều người địa phương. Ngài cũng ngăn chặn sự săn bắn và đánh cá và cố gắng tiêm nhiễm vào dân chúng một thái độ tôn trọng đối với thú vật. Ngài chủ trương xây dựng cầu cống ở trong vùng.
Sau đó ít lâu, có tin đến là vị hậu thân mới của ngài Sharmar đã sanh ra trong một gia đình Drigung. Ngài công nhận đứa bé này là hậu thân, và khoảng thời gian này, đã làm lễ xuất gia cho một số đông các vị tăng Drigung. Năm 1594 Karmapa mang đứa bé Shamarpa theo về Tsurphu ở đó ngài bắt đầu dạy cho nó truyền thống Kamtshang.
Tiếp theo, ngài du hành với chùa trại đến Tsari. Ngài dạy tham thiền Vajrayogini cho những hành giả ẩn tu. Ngài cũng truyền thọ tuyển tập của Gampopa và truyền đại giới.
Lều trại của ngài chuyển đến Kongpo, đi ngang ngôi chùa cổ của Gampopa là Dak Lha Gampo. Ở Kongpo ngài góp phần giúp đỡ dân địa phương và đóng góp tài sản cho các chùa chiền. Ngài ở lại vùng Kongpo tám năm, hoạt động và ẩn tu liên tiếp nhau. Một điểm đặc biệt quan trọng trong thực hành ẩn tu của Karmapa là thiền định về Mahakala. Trong khi dạy ngài nhấn mạnh các bản văn của tám vị Karmapa.
Ngài lập ra một trung tâm ẩn tu mới ở Tashi Gungtang, nơi mà Karmapa thứ ba Rangjung Dorje đã thiền định. Khi ở đấy, ngài sáng tác một luận giải về Kalacakra Tantra và bốn bậc Tantra. Ngài cũng viết một sadhana (hành trì) về Tỳ Lô Giá Na. Ngài hoàn tất sự trao truyền các bản văn của tám vị Karmapa đã bắt đầu từ trước, và chủ trì một buổi lễ cầu nguyện. Cuối cùng sau khi truyền pháp Kalacakra nơi lều ngài, Karmapa trở về ẩn tu.
Xong thời kỳ thực hành mạnh mẽ này, ngài dạy đệ tử yếu nghĩa phái Kargyu. Ngài bắt đầu bằng tác phẩm “Ngọc ngà của giải thoát” của Gampopa, trong đó chỉ bày con đường tiệm tu nhờ đó người đệ tử nhập pháp và tiến bộ qua Tiểu thừa và Đại thừa đến Giác Ngộ. Rồi ngài dạy về Kim Cương thừa, nhấn mạnh Sáu giáo pháp của Naropa và Đại Ấn. Sau đó, để truyền đạt nguồn cảm hứng của dòng phái, ngài cử hành lễ “Mũ Đen” cho mười ngàn người tham dự. Ngài xuất gia cho vị Situ Rinpoche thứ năm là Chokyi Gyaltsen và dạy vị này giáo lý Kagyupa.
Karmapa thứ chín nhận được những lời mời của các nhà cầm quyền Mông Cổ ở Trung Hoa nhưng đều từ chối. Tuy nhiên ngài nhận đến U và Tsang. Ngài đi đến chùa tổ của phái Drukpa Kagyu là Sang Ngag Choling, giảng pháp ở đó. Trước khi trở về Tsurphu, Karmapa thăm nhiều nơi ở Tsang và Rinpung. Ngài cử hành lễ cầu nguyện năm mới nơi trại tu và xuất gia cho vị Tulku Shamar thứ sáu là Chokyi Wangchuk.
Karmapa có một quan tâm sâu sắc về sự trùng tu và phát triển các tu viện phái Kagyu. Ngài yêu cầu vị Lạt ma Karma Thinley thứ hai trùng tu chùa Shedrup Ling.
Karmapa du hành vùng ngoại biên Mông Cổ theo sự yêu cầu của vua Hortu. Để vinh danh thông điệp Từ Bi của ngài, nhà vua thả hết tù nhân và nguyện giữ giới bất hại. Karmapa cử hành lễ “Vương miện kim cương” và chỉ dạy triều thần và dân chúng sự phát triển Tâm Đại Bi qua sự thiền định về đức Quán Thế Âm.
Một trong những học trò gây ảnh hưởng mạnh của ngài là học giả và dịch giả nhiều sáng tác Taranatha, người viết cuốn “Lịch sử giáo pháp ở Ấn Độ.” Ngài đã ban cho ông tất cả mọi sự truyền pháp, bản văn và giáo lý của dòng Karma Kagyu. Trong khi dạy, có lần Karmapa cầm một chén lúa mì, khuấy với một cái cây, và đặt lên đầu Taranatha rồi nói: “Như Karma Pakshi đã làm đối với Urgyenpa, ta cũng làm thế với ông. Ta trao cho ông toàn bộ pháp truyền của phái Kagyu.”
Sau lễ đầu năm 1603, Karmapa cảm thấy không khỏe. Ngài biết sắp chết và gởi những lá thư báo trước sự tái sanh của mình ở xứ Kham. Ngài ra đi vào sáng hôm sau. Xá lợi được thờ ở Tsurphu.
Các đệ tử chánh của ngài là Sharmar Chokyi Wangchuk, Lotsawa Taranatha, Situ Chokyi Gyaltsen, Pawo Tsuglak Gyaltsho, Drigung Kagyupa Chokyi Rinchen Namgyal và Taglung Kagyupa Chokyi Kunga Tashi.