Chương 2: Màn Huyễn Thuật - Tương Tự Thứ Hai
Lại nữa, chư Phật trong trí huệ của các ngài đã nói:
rằng trong tính không chất thể trống rỗng của chúng
mọi tình huống đều giống như một trình diễn huyễn thuật.
Lại nữa, hãy nghe khi tôi kể lại kinh nghiệm cá nhân
theo nghĩa tâm yếu của các kinh,
tantra và giáo huấn khẩu truyền.
Như tánh giác nguyên sơ sanh khởi tự phát
trong không gian như bầu trời của bản tánh bổn nguyên của tâm,
chiếu sáng như những quả cầu đầy sao sáng,
cũng thế, từ không gian trống không thấm nhập khắp, kỳ diệu, chứa đựng tất cả,
những tưởng tượng của vô minh nhị nguyên hóa tự sanh khởi
như ba cõi huyễn hóa
với sáu loại chúng sanh,
nó – vắng mặt nhưng hiển lộ – là tất cả màn trình diễn huyễn thuật.
Qua những điều kiện trùng hợp,
đồng thời, màn huyễn thuật tự trình hiện,
giống như ngựa và voi, đàn ông và đàn bà,
núi non và lâu đài .v.v…, làm xuất hiện bởi một nhà huyễn thuật
dùng những chất liệu gỗ, đá và bùa chú huyễn thuật.
Vô minh tiềm ẩn của trí năng mê lầm bị nghiệp quy định
phô diễn thế giới khách quan của những tình huống và chủ thể
nơi ba độc, phản ứng với nó một cách chủ quan,
và chúng ta chứng ngộ, rõ ràng, trong khoảnh khắc này,
rằng những hình tướng, không có chất thể, không hề kết tinh,
với chúng sanh xuất hiện, toàn thể chúng,
gồm trong một màn trình diễn huyễn thuật hấp dẫn diệu kỳ của tánh Không.
Chúng ta nhận biết rằng mọi hoàn cảnh, sanh tử và niết bàn,
từ căn bản, là đồng nhất với bầu trời,
thanh tịnh trong chỗ bắt đầu không bắt đầu bổn nguyên của nó.
Trong không gian ấy của sáng tạo như huyễn vô sanh
màn diễn thực tế là căn cứ của chuyển hóa,
màn diễn nhiễm ô cần được tịnh hóa,
màn diễn kỹ thuật của giải nhiễm khéo léo,
và màn diễn tối hậu của tánh giác nguyên sơ –
bốn cái này là những xuất hiện của màn diễn huyễn thuật.
Trong một sự lừa dối như huyễn do bùa chú huyễn thuật tạo ra,
như gỗ và đá xuất hiện như những voi và ngựa
không phải là những voi và ngựa mà vẫn là gỗ và đá,
thế nên mọi hoàn cảnh, sự không thực tại của chúng được chỉ ra,
phải được nhìn chỉ là những xuất hiện của màn huyễn thuật.
Mê lầm căn bản, những tình huống của nó là tiến trình mê lầm,
sự giải thoát mê lầm khỏi những hình tướng mê lầm,
và năng lực của sự giải thoát bổn nguyên
được chỉ ra ở đây là bốn trường hợp của màn huyễn thuật:
hình ảnh dẫn nhập minh họa thực tế của ảo ảnh,
những hình ảnh minh họa của ô nhiễm và rồi sự khử nhiễm,
và hình ảnh minh họa của trạng thái kết quả.
Thực tế của màn huyễn thuật là tịnh quang của bản tánh của tâm;
nó là không gian trống không của nó và nó là Phật tánh.
Không phân chia theo tịnh hay bất tịnh
bởi vì nó vượt khỏi sanh tử và niết bàn,
nó là không gian trống không từ đó sanh tử và niết bàn đột khởi;
nó là nền tảng trong đó sanh tử và niết bàn sanh khởi
theo sự có mặt hay vắng mặt của hiện diện nội tại;
nó là tinh túy bổn nguyên của chúng ta; nó là trạng thái tự nhiên của hiện thể chúng ta.
Nền tảng của hiện thể này giống như một tấm gương sáng phản chiếu những hình ảnh
nhưng không thể chạm đến bởi bất kỳ hình ảnh phản chiếu nào;
mặt gương không chứa màu trắng hay đen
nhưng nó là nguồn gốc của những hình ảnh trắng và đen.
Với thấu hiểu ấy người ta trở nên thông tuệ.
Ảo ảnh bị nhiễm ô là hình tướng mê lầm của sanh tử
sanh khởi trong nền tảng do bám nắm cái nhất thể của nó như là nhị nguyên.
Ảo ảnh kỹ thuật tạo thành tiến trình tịnh hóa:
bốn cái ‘chuẩn bị’, ‘áp dụng’, ‘thấy’ và ‘làm quen’
làm chín hai tích tập và hai giai đoạn (sáng tạo và thành tựu),
xóa đi nhiễm ô của vô minh như những đám mây tan trong bầu trời.
Cực điểm của màn huyễn thuật của tánh giác nguyên sơ
xảy ra trong giai đoạn không học nữa,
nơi ba thân Phật trở nên tự phát sinh động,
và cả hai, thanh tịnh tinh túy và thanh tịnh biểu lộ được phát lộ.
Mọi trường hợp của màn huyễn thuật là huyễn thuật đồng thời
và giống như một màn huyễn thuật giả tạo từ những biểu tượng và chú thuật
mọi kinh nghiệm được phô bày như không chất thể và không thật,
một phần nhỏ của một mạng của ảo ảnh biến đổi liên tục.
Như thế chúng ta có thể chứng ngộ bản tánh như huyễn của mỗi tri giác
hiện ra lờ mờ rộng hơn xương cốt của những phần hợp tạo của nó.
Chẳng hạn, hãy xem những tri giác bình thường của những người khác –
những tri giác mê lầm không có thực tại,
chỉ là những hình ảnh của những giả định khớp với điều kiện hóa của nghiệp,
trong chính khoảnh khắc này, trống không, không chất thể, không thể nắm bắt,
và bây giờ chúng ta nhận biết chúng vượt khỏi tính cách nhị nguyên.
Bây giờ chúng ta biết sáu loại chúng sanh là như huyễn,
những chúng sanh tưởng tượng với những lạc thú tưởng tượng,
những cảm nhận tưởng tượng và sống và chết tưởng tượng,
tin vào những sự thật và giả dối tưởng tượng,
cư trú những vùng đất và thành phố tưởng tượng.
Thanh tịnh từ sơ thủy, nó đều là một màn huyễn thuật,
màn huyễn thuật bởi vì nó hiển lộ nhưng không có hiện hữu thật,
màn huyễn thuật bởi vì nó là một vận hành của những điều kiện đồng thời,
màn huyễn thuật bởi vì nó đánh lừa, làm ham mê rồi biến mất:
hãy tố cáo mọi hình tướng sanh tử là như huyễn, như ‘màn huyễn thuật’.
Nếu chúng ta không thấu hiểu cái được làm cho rõ ràng,
rằng sáu loại chúng sanh chỉ là xuất hiện của huyễn thuật,
chúng ta lang thang không ngừng trong thành phố không biên giới của sanh tử,
bị hành hạ bởi những cảm giác do nghiệp khởi dẫn – đáng buồn bao nhiêu!
Hãy hiểu, người thân yêu! Những hình tướng quy ước là vọng tưởng!
Các bạn may mắn, tin chắc bằng kinh nghiệm trực tiếp của mình,
bạn nhận biết rằng không hoàn cảnh nào có thật,
đột khởi từ không có gì và tan biến vào không có gì,
thanh tịnh từ ban đầu, nó đều chỉ là một màn huyễn hóa.
Các bạn nhận biết, các người may mắn,
rằng bản tánh của chúng sanh là xuất hiện, hiện hình,
bản tánh của tâm thanh tịnh là không gian trống không của ảo ảnh,
và sanh tử – niết bàn bất nhị là trò chơi của ảo ảnh như huyễn ấy.
Đức Phật đã nói rằng thông điệp duy nhất của ngài là an vui:
chúng ta nhận biết, tất cả chúng ta tìm kiếm giải thoát,
rằng bản thân toàn thể sự lừa dối là thực tại an vui.
Ảo ảnh làm an vui cũng có thể được biết như thế này:
nó là một màn huyễn thuật của tâm thanh tịnh
đó là sự tự phát bất biến, bất động;
nó là vị thầy ở khắp nơi, không lừa dối, như bầu trời,
giống như mặt trời, hay giống như viên ngọc như ý,
phô diễn sự sáng tạo vô hạn và đáp ứng toàn thể,
đó là sự đơn giản không thi thiết của sáng rỡ thanh tịnh.
Màn huyễn thuật ấy là sanh tử, giả tạo và quyến rũ,
không có bất kỳ định nghĩa nào, thoáng qua như bóng ma;
trong khoảnh khắc khi những khái niệm mê lầm từ bỏ nó,
nó tan biến vào không gian trống không của chính nó.
Ngay lúc những ngựa và voi ngừng xuất hiện
khi bùa chú của nhà huyễn thuật bị bẻ gãy,
nhị nguyên thuộc tri giác của sanh tử nhiễm ô
tự giải tan vào bản tánh bổn nguyên của nó,
và bây giờ trống không trong sự thanh tịnh của nó, nó mất mọi tính cách.
Màn huyễn thuật của trạng thái tự nhiên là thực tại bất động,
thực tại bao gồm cả nhiễm ô và tinh khôi;
cũng như không gian bên trong của cả hai bình vàng và đất sét,
dù bị bể hay còn nguyên, không tăng, không giảm,
thế nên trong những khoảnh khắc của mê lầm và giải thoát
bản thân thực tại vẫn là một hằng số bất biến
đây là tâm Phật trong trạng thái tự nhiên của hiện thể
và biết cái này là thực sự thông thái.
Thiền định
Đàng sau sự thấu hiểu cái thấy như huyễn này
chúng ta trau dồi ảo ảnh như huyễn an vui như trò đùa vũ trụ.
Trong chuẩn bị, như trước, hãy ngưỡng vọng đến một cảm thức về như huyễn.
Thường trực, ngày và đêm, khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác,
công việc chính của chúng ta là chú tâm vào mỗi biến cố bên ngoài và bên trong
như màn huyễn thuật xuất hiện bởi sức mạnh của hoàn cảnh,
như những lời nói dối, không trái tim hay ý nghĩa, trong suốt và không thật.
Thương và ghét của chúng ta, những xúc động tích cực và tiêu cực
bất cứ tình cảm nào khởi lên,
hãy xác nhận chúng là như huyễn. Hãy tu hành sự không thật này.
Bây giờ chúng ta thấy rằng cả hai, bên ngoài, những hiện tượng có vẻ vật chất
và bên trong, kinh nghiệm tâm thức, đều như huyễn thuật.
Bởi vì chúng được tạo bởi hoàn cảnh nhân duyên,
bởi vì chúng hư giả và lừa dối,
bởi vì chúng chỉ là hình tướng – ánh sáng
hãy luôn luôn nhìn chúng như là những xuất hiện của một màn huyễn thuật.
Vào khi ngủ, như trước, hãy thư giãn vào không gian của giấc mộng,
vào sự không thực làm an vui, không tạo tác gì trong sự đơn giản của nó.
Bất cứ giấc mộng mê lầm nào sanh khởi giờ được biết là như huyễn
và chúng ta thoát khỏi sợ hãi và khao khát đối với cái thật.
Làm việc với giấc mộng như huyễn, chuyển hóa sự phóng xuất hóa thân,
du hành như huyễn thuật vào những tịnh độ, hãy trau dồi tất cả như trước.
Bây giờ sự nghiện ngập sanh tử vỡ toang
và tự do trong như huyễn là niết bàn không trụ xứ,
sự hoàn thành tự phát của tự giác giác tha như huyễn.
Hãy chăm chú vào sự thật thường hằng là không có gì ngoài như huyễn!