Phụ Lục 3
Trong quá trình dịch và biên tập cuốn sách này, chúng tôi cũng may mắn gặp được hai bài giảng về pháp tu Phật A Di‐Đà của đức Pháp vương Kyabgon Chetsang Rinpoche – Người là một trong hai vị Pháp vương đứng đầu dòng truyền thừa Drikung Kagyu (thuộc Phật giáo Tây Tạng).
Chúng tôi vô cùng hoan hỷ được đưa hai bài giảng chân quý của đức Pháp vương Chetsang Rinpoche vào cuốn sách này để giới thiệu cùng quý Phật tử hữu duyên.
Nguyện mọi sự cát tường!
Làm thế nào để có thể kết nối được với Đức Phật A Di Đà trong đời sống hàng ngày
Làm thế nào để có thể kết nối với Đức Phật A‐Di‐Đà. Nếu chúng ta có cảm nhận là chúng ta cần kết nối với Phật A‐Di‐Đà, hoặc phát nguyện kết nối với Phật A‐Di‐Đà, thì điều đó chưa đủ. Chúng ta phải làm sao để có thể thực sự kết nối với Đức Phật A Di Đà từ tâm tới tâm. Tâm đại từ đại bi của Phật A‐Di‐Đà luôn ở đó, giống như khi có một cái hoa tai và chúng ta hỏi làm thế nào để đeo hoa tai vào người? Chúng ta cần phải có một cái móc để có thể đeo hoa tai đó. Cái móc ở đây chính là lòng tín tâm, sự quy ngưỡng cần phát khởi tới Phật A‐Di‐Đà, tới tâm đại từ đại bi của Ngài.
Nói chung, có nhiều cõi giới Tịnh độ khác nhau. Chẳng hạn cõi Tịnh độ hướng Đông – là cõi Tịnh độ của sự hỷ lạc chân chính; cõi Tịnh độ hướng Nam – là cõi Tịnh độ của vị Phật Quang Minh; cõi Tịnh độ hướng Tây – là cõi Tịnh độ của đức Phật A‐Di‐Đà, cõi tịnh độ hỷ lạc; cõi Tịnh độ hướng Bắc – là cõi Tịnh độ của những công hạnh viên mãn. Tóm lại, cõi Tịnh độ Sukhavati – cõi Tịnh độ Cực Lạc – chính là cõi Tịnh độ của Đức Phật A‐Di‐Đà.
Chúng ta có pháp môn hành trì cầu vãng sanh về cõi Cực Lạc của Đức Phật A‐Di‐Đà. Đây là pháp môn tối quan trọng của giáo lý Đại thừa. Ví dụ ở truyền thống Phật giáo Trung Hoa có hai pháp tu chính yếu. Một là tu tập để vãng sanh về cõi Cực Lạc của Phật A‐Di‐Đà, hai là tu thiền để đạt được chánh định (samathi). Cũng như thế trong truyền thống Phật giáo Tây Tạng có các pháp tu khác nhau, trong đó có truyền thống hành trì theo pháp môn của Phật A‐Di‐Đà. Vừa mới đây có các bài khẩn nguyện hướng về Đức Phật A Di Đà cũng đã được thâu tóm và ấn tống trong hai bộ tư liệu và được sử dụng trong truyền thống Tây Tạng. Do đó, chúng ta cần hiểu Phật giáo Tây Tạng cũng có sự kết nối rất sâu sắc với Đức Phật A Di Đà và giáo lý của Ngài. Vì vậy, đối với người Tây Tạng, việc hành trì cầu vãng sanh về cõi Tịnh độ của Phật A‐Di‐Đà cũng rất quan trọng.
Với các cõi Tịnh độ khác nhau như bốn cõi Tịnh độ đã được [Pháp vương Chetsang Rinpoche] nhắc đến ở trên, cõi Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà là một cõi Tịnh độ vô cùng đặc biệt. Cõi Sukhavati hay cõi Cực lạc được hóa hiện nương vào đại hạnh nguyện của Đức Phật A‐Di‐Đà. Trước khi thành tựu quả vị Phật, Đức Phật A Di Đà là một vị tỳ kheo có pháp danh là Pháp Tạng. Khi đó tỳ kheo Pháp Tạng đã phát nguyện rất rộng lớn, vĩ đại là Ngài có thể kiến lập một cõi Tịnh độ Cực Lạc, nơi mà những chúng sinh chưa hoàn toàn từ bỏ được hết chướng ngại, tham ái, tâm niệm ô nhiễm vẫn có thể được vãng sanh vào đó. Và vì vậy, cõi Tịnh độ Cực Lạc được kiến lập nương vào đại hạnh nguyện của Ngài. Nói chung, người ta nói có tất cả 500 đại nguyện mà Đức Phật A Di Đà đã phát khi là tỳ kheo Pháp Tạng. Truyền thống Phật giáo Trung Hoa liệt kê 47 đại nguyện của Ngài. Và trong các truyền thống Phật giáo khác hoặc các kinh điển Phật giáo nói rằng, Ngài đã phát hơn 40 đại nguyện, nương vào các đại nguyện này của Ngài mà cõi Tịnh Độ Cực Lạc được thiết lập. Cõi Tịnh độ này khác xa các cõi Tịnh độ khác bởi vì ở Cõi Cực Lạc, những chúng sinh tầm thường như chúng ta – là những chúng sinh chưa thoát khỏi che chướng, chưa từ bỏ hết tham sân si và các tâm niệm ô nhiễm – vẫn có thể được tái sinh ở đó, và khi đã tái sinh ở đó rồi chúng ta vẫn có thể đi được đến các cõi Tịnh độ khác. Đây là một điều vô cùng đặc biệt và riêng có của cõi Tịnh độ của Đức Phật A‐Di‐Đà.
Cõi Tịnh độ Cực lạc của Phật A‐Di‐Đà là cõi vô cùng đặc biệt, vô cùng vi diệu và màu nhiệm. Các chúng sinh ở đó được sinh ra một cách vi diệu. Cõi Cực lạc này có các bờ sông, bờ hồ thuần khiết, những con chim thanh tịnh. Đời sống ở đó rất thanh tịnh! Tất cả các âm thanh, hình tướng ở cõi Tịnh độ Cực lạc đều chứa đựng Pháp. Chúng sinh được sinh ra ở đây một cách vô cùng màu nhiệm, chúng sinh trong cõi Tịnh độ Cực Lạc có thể hóa hiện vô lượng vật phẩm cúng dường từ lòng bàn tay của họ. Các vật phẩm cúng dường này vô cùng thuần khiết giống như được nhắc ở một câu chuyện trong kinh điển, Phổ Hiền Bồ Tát hóa hiện vô số vật phẩm cúng dường màu nhiệm từ lòng bàn tay của Ngài. Chúng sinh ở cõi này có thể đến được các Phật Quốc hay các cõi Tịnh độ khác. Đây là các đặc điểm vô cùng vi diệu của cõi Cực lạc này, mà chúng ta có thể đã được biết đến. Chúng ta phát nguyện vãng sanh vào cõi Tịnh độ này là để thành tựu những phẩm hạnh thâm diệu ở đó.
Có ba cách, hay ba phân loại để giúp chúng ta hiểu hơn về cõi Tịnh Độ của Phật A‐Di‐Đà. Phân loại thứ nhất là những minh họa về cõi Tịnh độ Cực Lạc, chẳng hạn bức tranh Phật treo ở sau lưng Đức Pháp vương, đây là hình thức để giúp chúng ta hiểu được, nhìn thấy được về cõi Tịnh độ và điều này được làm vì lợi lạc của chúng sinh! Phương cách thứ nhì để hiểu về cõi Tịnh độ là cõi Tịnh độ được hóa hiện từ chính bản thân chúng ta, từ chính tri kiến thuần tịnh bên trong mỗi chúng ta. Phương cách thứ ba là làm sao đạt tới cảnh giới tối thượng viên mãn thực sự của cõi Tịnh độ, và đây chính là cõi Tịnh độ tối thượng, viên mãn. Tóm lại có ba phân loại để hiểu về cõi Tịnh độ:
(1) Thông qua tranh minh họa Cõi Tịnh độ;
(2) Thông qua tri kiến thuần tịnh từ bản thân mỗi người;
(3) Cõi Tịnh độ viên mãn.
Làm thế nào để chúng ta có thể kết nối với Đức Phật A Di Đà trong đời sống hàng ngày. Thật ra có bốn điều kiện chúng ta cần phải có nếu muốn kết nối với Đức Phật A Di Đà trong đời sống hàng ngày. Thứ nhất là ruộng công đức – chính là nền tảng. Thứ hai là cái nhân, ở đây muốn nói đến sự tích lũy công đức, trí tuệ và tịnh hóa nghiệp chướng, chướng ngại. Thứ ba là phát khởi Bồ Đề Tâm, tâm nguyện giác ngộ vì lợi lạc chúng sinh. Thứ tư là hồi hướng và tiếp tục cầu nguyện. Đây là bốn điều kiện tối cần thiết mà chúng ta cần phải có để kết nối được với tâm thức của Đức Phật A‐Di‐Đà.
1. Đầu tiên khi nói đến nguyên nhân hay điều kiện thứ nhất để có thể tái sinh vào cõi Tịnh Độ Cực Lạc, chúng ta nói đến ruộng công đức. Và vì vậy có pháp môn quán tưởng ruộng công đức, hay quán tưởng cõi Phật A‐Di‐Đà, đây là pháp môn hành trì để hỗ trợ cho chúng ta và tạo nền tảng cho chúng ta tu tập. Muốn quán tưởng ruộng công đức, hay quán tưởng cõi Phật A‐Di‐Đà, thì gồm có hai phần. Phần thứ nhất là sử dụng những phương tiện để hỗ trợ như sử dụng thangka, bức tranh của cõi Tịnh độ. Thông qua việc nhìn ngắm bức tranh hay thangka cõi Tịnh độ kỹ lưỡng, sau đó cố gắng quán chiếu làm sao để hình ảnh Cõi Cực Lạc hóa hiện rõ nét trong tâm trí của chúng ta. Phần thứ hai là đọc tụng và trì tụng kinh A‐Di‐Đà thường xuyên để nhớ chi tiết về cõi Tịnh độ được minh họa như thế nào. Nếu tụng đọc kỹ lưỡng, chúng ta sẽ quen thuộc với hình ảnh của Cõi Tịnh độ và vì thế hình ảnh cõi Tịnh độ sẽ thấm nhuần vào tâm thức của chúng ta. Khi cõi Tịnh Độ thấm nhuần vào tâm thức chúng ta, và khi chúng ta có thói quen quán tưởng về cõi Tịnh Độ, thì vào thời điểm chúng ta ra đi, hình ảnh của cõi Tịnh độ sẽ hóa hiện trong tâm chúng ta.
2. Nguyên nhân hay điều kiện thứ hai cần có trong đời sống hàng ngày là cần biết tích lũy công đức, phước đức, trí tuệ, và kèm theo đó chúng ta còn cần tịnh hóa nghiệp chướng, chướng ngại trên con đường tu tập. Làm thế nào để thực hiện được điều này? Sau khi quán tưởng ruộng công đức mô tả hình ảnh cõi Tịnh Độ của Phật A‐Di‐Đà một cách rõ ràng, sau khi giữ để hình ảnh đó hiện lên rõ ràng trong tâm thức chúng ta, thì đối trước những hình tượng đó, chúng ta cúng dường bảy nhánh. Bài nguyện cúng dường bảy nhánh chính là bảy phương pháp tu tập khác nhau, gồm có (1) quy ngưỡng Đức Phật; (2) cúng dường lên Đức Phật; (3) sám hối tất cả các ác nghiệp đã tạo; (4) tủy hỷ với các thiện hạnh, thiện nghiệp; (5) thỉnh cầu chư Phật chuyển Pháp; (6) thỉnh cầu các Ngài thường trụ, tại thế; (7) hồi hướng tất cả công đức cho chúng sinh. Đây là các phương pháp đặc biệt giúp chúng ta tịnh hóa nghiệp chướng và tích lũy công đức.
Trong truyền thống Phật giáo Trung Quốc, người Trung Quốc trì tụng nhiều danh hiệu khác nhau của Phật A‐Di‐Đà, đây là một cách để tích lũy công đức. [Pháp vương Chetsang Rinpoche nói rằng] năm ngoái (2009) khi Ngài đến thăm Việt Nam, dân chúng Việt Nam cúng dường một số lượng hoa vô cùng nhiều lên chư Phật. Và Ngài nói đây cũng là một pháp tu vĩ đại, một phương cách rất tốt để cúng dường chư Phật và tích lũy công đức. Ở Tây Tạng, [Ngài nói] chúng tôi không có nhiều hoa cho lắm, nên cách chúng tôi tích lũy công đức là cúng dường những lời cầu nguyện lên chư Phật và phát khởi đại nguyện. Ngoài ra ở Tây Tạng, Phật tử còn cúng dường đèn, nến, hương đăng, ... Đèn nến cúng dường ở Tây Tạng được làm bằng bơ của con trâu Yak cái.
3. Điều kiện hay nguyên nhân thứ ba cần có để chúng ta có thể kết nối được với Đức Phật A Di Đà trong đời sống hàng ngày là chúng ta cần phát khởi Bồ Đề Tâm, hay tâm thức giác ngộ vì lợi lạc chúng sinh. Nếu chúng ta chỉ quan tâm đến mình mà không quan tâm đến người khác, thì với động lực như vậy chúng ta sẽ không thể được tái sinh vào Cõi Cực lạc của Phật ADi‐Đà, điều đó sẽ không xảy ra! Vì vậy điều kiện thứ ba là chúng ta cần phải phát khởi Bồ Đề Tâm, có những giải thích khác nhau về Bồ Đề Tâm. Nói chung Bồ Đề Tâm được chia làm ba loại.
a. Thứ nhất là phát khởi tâm Bồ Đề như một vị Vua, một đấng Quân Vương, vị Vua trở thành người đứng đầu và trị vì một đất nước. Sau khi lên ngôi Vua, vị Vua cố gắng mang lại lợi ích cho thần dân của Ngài. Tương tự, nếu một người phát nguyện muốn đạt được giác ngộ trước, sau đó qua sự giác ngộ và giải thoát của mình, người đó có thể giúp người khác, thì đó là phát nguyện giống vị Vua.
b. Thứ hai, phát khởi tâm nguyện giống người thuyền trưởng. Người thuyền trưởng phát tâm nguyện Bồ Đề cùng hành khách của mình vượt qua sông cùng lúc, đạt giác ngộ cùng lúc với hành khách của ông.
c. Thứ ba, phát khởi tâm Bồ Đề giống người chăn cừu. Một người chỉ có ước nguyện duy nhất muốn làm lợi lạc người khác mà không có một chút gì bám chấp về bản ngã của mình, thì gọi là phát khởi Bồ Đề Tâm giống như người chăn cừu. Điều mà người chăn cừu mong muốn là làm sao giúp ích được cho chúng sinh, người chăn cừu bằng mọi hình thức bảo vệ các con thú của anh ta, giúp chúng thoát khỏi mọi sợ hãi, nguy hiểm, mang chúng đến những nơi có đồng cỏ tốt cho chúng ăn, nơi có nước ngon cho chúng uống. Với tâm nguyện như vậy, người chăn cừu không có bất cứ một sự chấp ngã nào cả, hạnh nguyện duy nhất của người chăn cừu là mang lại lợi lạc cho chúng sinh. Nếu chúng ta phát khởi tâm nguyện Bồ Đề như người chăn cừu thì đó là tâm Bồ Đề cao nhất, tâm Bồ Đề tối thượng.
Nếu không có Bồ Đề Tâm, nếu chúng ta chỉ nghĩ đến bản thân, và chỉ mong muốn chúng ta và những người thân yêu của chúng ta hạnh phúc, và đạt đến được cảnh giới của Phật A‐DiĐà thì đó là tâm nguyện vô cùng thiếu sót, giới hạn. Đó không phải là nền tảng, nguyên nhân tốt lành để tái sinh vào cõi Cực Lạc, do đó cần hết sức cố gắng để có được động lực thiện lành, đó là động lực mong muốn và giúp cho tất cả chúng sinh vô lượng vô biên như không gian có thể được giải thoát như chúng ta.
Trong rất nhiều kinh điển và giáo lý đã được thuyết giảng có dạy rằng, nếu chúng ta chỉ nghĩ về bản thân và lợi ích cho mình mà không nghĩ về lợi ích của người khác, thì chúng ta không thể thành tựu được ước nguyện của bản thân mình. Nhưng nếu chúng ta luôn nghĩ và mong muốn làm lợi lạc cho chúng sinh khác thì thông qua động lực đó, chúng ta có thể thành tựu lợi ích của người khác và của chính mình. Tương tự như vậy, khi chúng ta làm việc vì lợi lạc của chúng sinh thì mục đích và lợi ích của chúng ta được thành tựu một cách tự nhiên, và đó là thành tựu đạt được thông qua việc nghĩ đến lợi lạc của người khác trước khi nghĩ đến mình.
4. Nguyên nhân hay yếu tố thứ tư để giúp chúng ta kết nối được với Phật A‐Di‐Đà trong đời sống hàng ngày là những lời cầu nguyện hồi hướng, hay hạnh hồi hướng của chúng ta. Chúng ta cần hồi hướng vì điều này rất quan trọng! Chúng ta nên hồi hướng tất cả các thiện hạnh ngay sau khi làm xong các thiện hạnh đó, trước khi có các vọng niệm xảy ra. Hồi hướng là pháp tu để giúp gốc rễ của thiện hạnh được tiếp tục tăng trưởng mà không bao giờ vơi cạn. Nếu chúng ta biết hồi hướng công đức thì đó là nguồn gốc của thiện hạnh, và nguồn gốc thiện hạnh sẽ luôn thường còn mà không bao giờ bị mất đi. Ví dụ khi chúng ta để một giọt nước trên một cái đĩa thì giọt nước có thể bị khô cạn rất nhanh, nhưng nếu cùng một giọt nước mà chúng ta cho vào đại dương bao la thì giọt nước sẽ luôn mãi ở trong lòng đại dương cho dù đại dương có còn hiện hữu hay không, cho dù đại dương có khô cạn thì giọt nước vẫn ở trong lòng đại dương. Tương tự như vậy nếu chúng ta cầu nguyện tái sinh lên cõi Tịnh Độ Cực Lạc của Phật A‐Di‐Đà thì chúng ta cần phát nguyện cùng với tâm Bồ Đề, và tâm Bồ Đề đó cần luôn tràn khắp, thấm nhuần với ước nguyện vãng sanh. Nếu có tâm Bồ Đề và biết cách hồi hướng thì tâm Bồ Đề sẽ luôn thường còn, Tâm Bồ Đề và hồi hướng sẽ giúp cho nguồn gốc thiện hạnh luôn luôn trụ lại. Cho dù ta chết hay bất tỉnh, nguồn gốc thiện hạnh chúng ta đã hồi hướng không bao giờ chấm dứt. Vì vậy nếu chúng ta hồi hướng thiện hạnh cùng với tâm Bồ Đề thì sẽ làm cho thiện hạnh của chúng ta ngày càng tăng trưởng thêm.
Tâm nguyện mong được vãng sanh ở cõi Tịnh độ của Phật A‐Di‐Đà là một điều kiện, nhân tố vô cùng quan trọng, có được sự phát tâm đó sẽ giúp chúng ta bước đi trên con đường tu tập, là con đường dẫn chúng ta có thể đến được cảnh giới Tịnh độ Cực Lạc. Chúng ta nghe nói, tất cả các hiện tượng trong Pháp giới đều được tạo ra do bởi nhân duyên, và những nhân duyên này đến từ động cơ của chúng ta. Mọi hành động, công việc, công hạnh, bất kỳ việc gì xảy ra, tất cả đều đến từ động cơ thúc đẩy chúng ta làm việc đó, vì vậy động lực là quan trọng nhất trong con đường tu tập. Thông qua năng lực của động cơ, của tâm; nương vào năng lực của thân, khẩu, ý, chúng ta dùng đó làm thước đo để biết có được vãng sanh hay không. Một lần nữa chúng ta biết rằng trước tiên phải phát khởi đại nguyện để được vãng sanh vào cõi Cực Lạc, và sau đó cần phải phát khởi Bồ Đề Tâm. Và quan trọng hơn nữa, cần nhất tâm quán chiếu sâu sắc Bồ Đề Tâm, dùng Bồ Đề Tâm là động cơ thúc đẩy tu tập và là phương tiện để tái sinh vào cõi Cực Lạc.
Năng lực của tâm chúng ta rất to lớn vĩ đại không thể nghĩ bàn, sự vận hành của tâm cũng như vậy, vượt khỏi sự thấy biết của chúng ta và là không thể nghĩ bàn. Vì vậy khi chúng ta phát tâm và cầu nguyện được vãng sanh ở cõi Tịnh độ Cực Lạc thì sự phát tâm này cũng mang một năng lực không thể nghĩ bàn, nếu chúng ta đã phát khởi Bồ Đề Tâm một cách chân chính thì đó chắc chắn sẽ là một hạt giống đưa đến giác ngộ, điều này là hoàn toàn chắc chắn. Thậm chí ngay cả khi chúng ta chưa thật sự phát khởi Bồ Đề Tâm, khi chúng ta mới phát khởi Bồ Đề Tâm hư dối thì đó vẫn là một nguyên nhân, một nhân duyên dẫn chúng ta cuối cùng đạt được giác ngộ.
Trong một số kinh điển có kể câu chuyện về một ma vương. Ma vương đó chưa thành tựu được thiện hạnh, đã bị Đức Phật trói bằng dây thừng, Đức Phật dọa và bắt ma vương phải phát khởi Bồ Đề Tâm thì mới được cởi trói. Ma vương vì muốn được cởi trói nên đã phát khởi tâm Bồ Đề. Ma vương phát khởi Bồ Đề Tâm để được cởi trói chứ không phải chính từ đáy lòng, đó không phải phát Bồ Đề Tâm chân chính. Tuy vậy, ngay khi ma vương phát khởi Bồ Đề Tâm, Đức Phật thọ ký vào một thời trong tương lai ma vương sẽ thành Phật, sẽ đạt được giác ngộ. Câu chuyện này nói rằng ngay cả khi chúng ta phát khởi Bồ Đề Tâm hư dối, không chân chính, thì chính sự phát khởi Bồ Đề Tâm đó và chính tâm Bồ Đề đó vẫn mang lại lợi lạc và kết quả vô cùng tốt đẹp. Vì vậy điều rất quan trọng là phải gieo hạt giống Bồ Đề Tâm để đạt được tái sanh vào cõi Tịnh Độ của Phật A‐Di‐Đà, một khi đã gieo hạt giống thì chắc chắn sẽ có hoa trái! Giống như khi chúng ta gieo hạt xuống một cánh đồng thì dù muốn hay không muốn hạt giống sẽ nảy mầm, đó là khi được tái sinh vào cõi Tịnh Độ của Phật A‐Di‐Đà.
Vì vậy trước khi chúng ta chết, chúng ta phải phát đại nguyện và khẩn nguyện một cách rất chân thành là muốn được tái sinh vào cõi Tịnh Độ Cực Lạc, với một tâm thức tự do thoát khỏi mọi nghi ngờ, thì điều này sẽ giúp cho chúng ta được rất nhiều.
Vừa qua Ngài đã giảng dạy cho chúng ta làm thế nào kết nối với Phật A‐Di‐Đà trong cuộc sống hàng ngày. Chúng ta đã học về các phương thức khác nhau, theo những gì Đức A‐Di‐Đà đã chỉ dạy. Tiếp theo Đức Pháp Vương Chetsang Rinpoche sẽ chỉ dạy cho chúng ta biết làm sao để tự bản thân mỗi người quán chiếu về Đức Phật A Di Đà và cõi Tịnh Độ của Đức Phật A‐Di‐Đà, làm thế nào có thể quán tưởng được cõi Tây Phương Cực Lạc từ chính bản thân mỗi chúng ta, và làm thế nào để hành trì được pháp môn của Đức Phật A Di Đà bằng một tri kiến hoàn toàn thuần tịnh từ bản thân mỗi người.
Tri kiến thuần tịnh là tinh túy của Kim cương thừa, để tu tập theo pháp môn của Đức Phật A‐Di‐Đà, nếu muốn phát khởi một tri kiến thuần tịnh về cõi Tịnh Độ Cực Lạc, thì chúng ta có thể hành trì theo pháp môn đã được giảng dạy trong Kim Cang thừa. Kim Cang thừa là con đường tu tập còn được gọi là quả thừa. Sở dĩ Kim Cang thừa được gọi là quả thừa vì người hành giả sử dụng phương pháp nương vào kết quả để hành trì trên con đường tu tập. Đầu tiên chúng ta thọ nhận gia lực hay quán đảnh từ Đức Phật A‐Di‐Đà, sau đó đón nhận giáo lý, chỉ dẫn và tu tập theo hai giai đoạn khác nhau.
Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn sinh khởi hay tu tập theo các vị Hộ Phật. Giai đoạn thứ hai là giai đoạn thành tựu vị Hộ Phật. Khi bắt đầu thực hành giai đoạn sinh khởi hay quán tưởng vị Hộ Phật, chúng ta trì tụng câu minh chú bằng tiếng Phạn: “Om Swabhava Shuddha Sarwa Dharma Swabhava Shuddha Ham”. Câu minh chú này có nghĩa rằng “tất cả mọi hiện tượng trong pháp giới đều thuần khiết từ bản tánh”. Bản tánh của tất cả các hiện tượng là thanh tịnh, đó là phương cách để chuyển hóa tri kiến bất tịnh trở thành tri kiến thuần khiết. Ví dụ như khi ở đây, chúng ta coi chỗ này là nơi không thanh tịnh, không linh thiêng. Chúng ta coi chỗ này là nơi bình thường thế tục, và từ đó chúng ta có sự bám chấp cho rằng nơi này không phải là nơi thanh tịnh, nơi này chỉ là nơi bình thường thế tục. Nếu chúng ta trì tụng câu minh chú đó sẽ giúp ta quán chiếu về nơi chốn này như một pháp giới thuần tịnh, và chúng ta có thể chuyển hóa tri kiến bất tịnh thành tri kiến thanh tịnh.
Chính bằng phương cách đó, chúng ta có thể chuyển hóa nơi chốn này, bình chứa này thành một cõi Phật, một cõi Tịnh Độ. Bình chứa nói ở đây chính là cõi giới mà chúng sinh đang sống ở trong đó. Qua phương pháp đó, chúng ta có thể trực chứng ra được tinh túy của chính sự tỉnh giác của chúng ta, và sự tỉnh giác này chính là Đức Phật A‐Di‐Đà, là tinh túy của tâm thức của chúng ta. Ví dụ qua pháp môn tu tập của giai đoạn sinh khởi, chúng ta quán tưởng chủng tự của Đức Phật A‐DiĐà, quán tưởng pháp tòa của Ngài gồm mặt trăng, mặt trời, và quán tưởng luồng ánh sáng phóng tỏa ra từ hình tướng đó và dâng cúng đến chư Phật và chư Bồ tát ở cõi cao hơn, và sau đó quay trở lại hòa tan vào người hành giả. Khi có thể quán tưởng như vậy, chúng ta dần dần hóa hiện chính bản thân mình thành thân tướng của Phật A‐Di‐Đà, dần dần chúng ta thấy chính bản thân mình là Phật A‐Di‐Đà. Chính qua pháp môn tu tập để phát khởi tri kiến thuần tịnh này, chúng ta sẽ dần dần thấy cõi giới này là cõi Phật, và chúng ta – các hành giả ‐ chính là Đức Phật A‐Di‐Đà. Đó chính gọi là Samaya‐Sattwa hay các vị Tát Đỏa Mật Nguyện.
Sau khi quán tưởng mình trong thân tướng của Phật ADi‐Đà và trở thành 1 vị Tát Đỏa mật nguyện, thì chúng ta cần hiểu dù quán tưởng thân mình như thế nhưng sâu trong dòng tâm thức của mình, chúng ta chưa hoàn toàn dứt bỏ tri kiến tầm thường, thế tục. Chúng ta vẫn quan niệm mình là người bình thường và thân, khẩu, ý là thân, khẩu, ý thế tục. Để xua tan tri kiến này, sau khi quán tưởng chính bản thân mình trong hình tướng Phật A‐Di‐Đà, chúng ta cần quán tưởng chủng tự HRI trong luân xa tim của mình. Từ chủng tự HRI vô số hào quang phóng tỏa thỉnh nguyện chư Phật Bồ Tát. Chư Phật Bồ Tát ở mười phương trên không gian hóa hiện trong hình tướng của Phật A‐Di‐Đà ‐ nhiều vô lượng vô biên giống như muôn vàn giọt mưa từ khắp mười phương ‐ phóng tỏa các luồng ánh sáng xuống và rơi vào người hành giả. Khi đó chúng ta cần phải hiểu rằng chư Phật Bồ Tát trong hình tướng của Phật A‐Di‐Đà gọi là các vị Trí tuệ tôn. Các vị Trí tuệ tôn từ trên rơi xuống và tan hòa vào trong chúng ta ‐ được gọi là các hành giả mật nguyện. Sau đó chúng ta trì tụng câu minh chú “Dza Hum Bam Ho” để giúp tâm an định. Khi đó chúng ta cần hiểu tâm của chúng ta – gọi là các vị Tát đỏa mật nguyện ‐ và tâm của các vị Hộ Phật trí tuệ tan hòa vào nhau như nước hòa với sữa. Đó là các bước tuần tự trong giai đoạn sinh khởi các vị Hộ Phật. Hành trì quán tưởng vị Hộ Phật cũng là phương pháp thuần nhất rất phổ cập trong giai đoạn sinh khởi đối với các pháp tu khác nhau.
Khi quán tưởng chư vị Trí tuệ tôn và hành giả mật nguyện hòa tan vào với nhau, thì trên thực tế chúng ta có thể có sự nghi hoặc. Sở dĩ có sự nghi hoặc là do chúng ta đã tạo các tập khí sâu dày từ nhiều tiền kiếp. Làm sao để có thể chặt đứt được sự nghi hoặc và các tập khí này? Chúng ta có thể thực hiện điều đó thông qua việc đón nhận quán đảnh hay gia lực. Có nhiều lễ quán đảnh hay gia lực khác nhau, ví dụ chúng ta có thể nhận lễ gia lực tịnh bình. Chúng ta thỉnh mời chư vị Hộ Phật đến từ Ngũ Bộ Phật, các Vị tới để ban năng lực gia trì cho chúng ta. Thông qua các giai đoạn của phương pháp gia lực, chúng ta có thể từ từ cởi bỏ tri kiến tầm thường thế tục và thay thế bằng tri kiến thuần tịnh.
Chúng ta đã nói về cách thực hành tri kiến thuần tịnh từ bản thân mỗi người để được tái sinh vào Cõi Tịnh Độ Cực Lạc. Làm như thế nào để thực hiện được điều đó đúng nhất. Đó là khi chúng ta quán chiếu và nhìn thấy được rằng toàn bộ vũ trụ, toàn thể cõi giới này là cõi Tịnh Độ Cực Lạc, tất cả các chúng sinh sống trong đó là các Đức Phật A‐Di‐Đà. Chúng ta cần nhận diện ra rằng bất cứ hình tướng nào chúng ta nhìn thấy cũng đều đến từ Phật A‐Di‐Đà, bất cứ một âm thanh nào chúng ta nghe thấy cũng chính là âm thanh của Phật A‐Di‐Đà. Bất cứ tư tưởng nào hiện lên cũng là sự kết hợp giữa tánh sáng và tánh không, và đó chính là tư tưởng của Phật A‐Di‐Đà. Đây là phương cách để giúp hành giả tu tập để có thể hiểu được như thế nào là Đức Phật, nhất là hiểu được như thế nào là Đức Phật A Di Đà từ tri kiến thuần tịnh của bản thân mỗi người.
Sau đây Ngài giảng về cõi Phật viên mãn, cõi Phật tối thượng. Đó là cõi Phật thực sự khi chúng ta thành tựu được trí tuệ Ba La Mật. Thường thường trong truyền thống Phật giáo Tây Tạng, khi thành tựu trí tuệ Ba La Mật, người ta gọi là Mahamudra, hay Mahasiddhi, hay Dzogchen, và đó chính là Đại Thủ Ấn, là Đại Viên Mãn, là trí tuệ một Vị Phật. Đức Long Thọ có nói “Ta bà và Niết bàn không phải là hai thứ khác nhau, Ta bà và Niết bàn chính là một”. Làm sao để có thể hiểu được điều này? Chúng ta chỉ có thể hiểu được khi trực chứng được thực tướng của cõi Luân Hồi – khi trực chứng được thực tướng của Luân hồi thì đó chính là Niết Bàn. Sự trực chứng được thực tướng của cõi Luân Hồi là điều chúng ta cần đạt tới, khi hiểu được điều đó, chúng ta hiểu được tất cả các chúng sinh đều có Phật tánh, có một vị Như Lai bên trong. Kinh Bạch Hoa Sen nói rằng cần quán chiếu sâu sắc để hiểu được điều đó, sau đó trì tụng minh chú để có sự sáng suốt giúp tiếp tục quán chiếu. Hình thức tu tập này chính là nguyên nhân để giúp chúng ta đạt được giác ngộ, đây là cõi Phật viên mãn, cõi Phật tối thượng, đó chính là bản tâm của chúng ta. Nếu chúng ta trực chứng được bản tâm, trực chứng được thật tướng của vạn Pháp thì đó chính là Niết Bàn. Nếu không trực chứng được bản tâm mình, không nhận diện được thật tướng của vạn Pháp thì đó gọi là trạng thái luân hồi. Cõi Phật viên mãn, đó chính là trạng thái tâm tỉnh giác của chúng ta, đó chính là Phật tánh của chúng ta, đó chính là cái gọi là Rigpa.
Vậy Đức Pháp Vương Chetsang Rinpoche đã dạy cho chúng ta ba phương cách khác nhau để hiểu về cõi Tịnh Độ của Đức Phật A‐Di‐Đà. Thứ nhất là hiểu về cõi Tịnh độ như được giới thiệu, mô tả qua các hình thức minh họa khác nhau. Thứ hai là hiểu về cõi Tịnh Độ thông qua tri kiến thuần tịnh từ bản thân mỗi hành giả. Thứ ba là hiểu về cõi Tịnh độ viên mãn, tối hậu. Chúng ta cần hiểu cõi Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà thông qua ba lăng kính khác nhau như vậy. Và chúng ta cần kết hợp ba lăng kính khác nhau này về Cõi Tịnh Độ trong đời sống hàng ngày để kết nối với Đức Phật A‐Di‐Đà. Chúng ta cần thực hành dần dần, từng bước, như các bước khác nhau của bậc thang, cần đi từng bước để đạt đến cái gọi là viên mãn. Hô Kim Cang Mật Điển nói rằng, nếu mang giáo lý của người thượng căn giảng dạy cho người hạ căn thì giáo lý đó trở thành thuốc độc. Ngược lại nếu mang giáo lý của người hạ căn giảng dạy cho người thượng căn thì giáo lý đó cũng trở thành thuốc độc, vì không phù hợp căn cơ. Chúng ta cần hiểu rằng Đức Phật chính là Y Vương, Pháp chính là thuốc, và chúng sinh là bệnh nhân. Đức Phật trong cương vị Y Vương quan sát bệnh của chúng sinh và cho thuốc phù hợp với căn cơ của người đó. Vì vậy có các giáo lý khác nhau giành cho các chúng sinh với căn cơ khác nhau.
Hiểu được căn cơ của chúng ta, tu tập giáo lý đã được chỉ dạy một cách thuần tịnh, tinh tiến, qua đó chúng ta có thể kết nối với Đức Phật A Di Đà trong đời sống hàng ngày.
Tâm Bảo Đàn (Sue Sue Luu) Việt dịch 10/2009, Trần Lan Anh ghi chép 2013.
ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ VÀ CÕI TỊNH ĐỘ CỰC LẠC
Nói chung, ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộ mà chúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị. Có những cõi Tịnh Độ ở bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc, và ở trung tâm. Trong số đó, cõi Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà là nơi dễ đến nhất và vì thế rất đặc biệt. Nhờ lập một ước nguyện đặc biệt được tái sinh trong cõi Tịnh Độ Cực Lạc, ta có thể thành tựu sự chuyển di tâm thức của ta tới cõi đó. Năng lực của lời cầu nguyện, năng lực của ước nguyện sùng mộ và nhiệt thành là tất cả những gì cần phải có. Trong mối liên hệ với thế giới của ta thì Cõi Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà ở phương tây và ở phía trên thế giới của ta. Ta phải chấp nhận một vũ trụ quan và nhận ra rằng có nhiều hệ thống thế giới khắp không gian. Tôi đang nói tới một hệ thống hết sức bao la. Chúng ta hãy xác định vị trí của ta. Điều tôi đang nói ‐ trong phạm vi của hệ thống vĩ đại ‐ vận hành như sau: Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là Đấng Giác ngộ chính yếu trong một tiểu thiên thế giới vĩ đại. Điều này có nghĩa là toàn thể hệ thống được gọi là vũ trụ của ta với những mặt trời và mặt trăng, những vì sao và hành tinh, là một đơn vị. Nhân nó lên một ngàn lần và sau đó nhân lên một ngàn lần rồi một ngàn lần nữa. Đó là ba tiểu thiên thế giới. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thống lĩnh một trong những tiểu thiên thế giới đó. Cõi của Đức Vô Lượng Quang A Di Đà thậm chí siêu vượt hệ thống vũ trụ đó.
Điều tôi đang giảng có xuất xứ từ một lời cầu nguyện do Karma Chagme sáng tác biểu lộ nguyện ước mãnh liệt được tái sinh trong cõi Tịnh Độ Cực Lạc. Trong bài nguyện, Karma Chagme nói rằng cõi Tịnh Độ Cực Lạc có phạm vi rộng lớn như thế, vượt xa thực tại bình thường của chúng ta và mắt trần của chúng ta không bao giờ có thể nhìn thấy nó. Nó không phải là cái gì có thể được nhìn thấy một cách vật lý. Nó quá bao la; phạm vi của nó không thể so sánh với bất kỳ tiêu chuẩn nào. Ta biết rằng nó vượt quá khả năng tri giác của các giác quan của ta. Nó rất xa và rộng lớn, vì thế hoàn toàn vượt quá khả năng đo lường của ta. Chúng ta có thể nhìn thấy những vì sao và đi tới mặt trăng, nhưng các giác quan của ta sẽ không bao giờ nhận thức được thực tại của Cõi Cực Lạc. Đối với sự suy nghĩ và nhận thức bình thường của ta thì nó quá xa và quá bao la. Trong ý nghĩa đó, ta không thể tới đó bằng bất kỳ phương tiện vật chất nào. Tuy nhiên, khi tâm ta đã được tịnh hóa, được tiệt trừ được những lỗi lầm, khi trở về trạng thái nguyên sơ của chính nó thì ta có thể trực tiếp kinh nghiệm thực tại của cõi Tịnh Độ Cực Lạc. Cách thức để tri giác cõi Tịnh Độ là bằng tâm chứ không bằng những giác quan. Vì thế, hãy thiết lập cái thấy đó trong tâm bạn và hình dung rằng an trụ ở trung tâm của Cõi Cực Lạc bao la, gồm chứa tất cả là Chúa tể của cõi Tịnh Độ: Đức Phật A Di Đà, Đức Phật Vô Lượng Quang. Thân Ngài có sắc đỏ và trông giống Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài có đủ 80 tướng chính và 32 tướng phụ của một hiển lộ Hóa Thân toàn giác. Chẳng hạn như Ngài có nhục kế mà bạn nhìn thấy ở những pho tượng và thangka của Đức Phật. Trong bàn tay Ngài có những luân xa và v.v.. như bạn có thể nhìn thấy có nhiều tướng khác nhau. Hai bàn tay ở trong tư thế quân bình thiền định, Ấn Thiền Định, và trong bàn tay là một bình bát. Trông Ngài rất giống Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, chỉ khác ở điểm nước da Ngài có mầu đỏ hồng ngọc đậm. Trông Ngài thật rực rỡ và chói lọi. Ngài an tọa trên một hoa sen và một tòa mặt trăng. Sau lưng Ngài là Cây Như ý. Bên phải Ngài là Đức Avalokiteshvara (Quán Thế Âm) có sắc trắng. Bên trái Ngài là Đức Vajrapani (Kim Cương Thủ), Chúa tể của Những Phương tiện Mãnh liệt. Đây là ba vị lãnh đạo của Cõi Tịnh Độ Cực Lạc. Nói một chút về lịch sử sự hình thành cõi Tịnh Độ Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà thì đó là một cõi Tịnh Độ không có những khiếm khuyết. Nó viên mãn trong mọi phương diện.
Sự nhận thức về cõi Tịnh Độ đó không xuất hiện mà không có nguyên nhân. Nguyên nhân của cõi linh thánh toàn hảo này là gì? Rất nhiều kiếp về trước, trước khi là một vị Phật, Đức Phật A Di Đà là một tu sĩ có tên là Dharmakara (Pháp Tạng), có nghĩa đen là ‘căn nguyên của Pháp.’ Khi Ngài tu hành như một Bồ Tát, Ngài đã lập một loạt những lời cầu nguyện, hay những nguyện ước mãnh liệt, về cách thế của những sự vật khi Ngài hoàn toàn Giác ngộ. Ngài nói: “Có rất nhiều cõi Tịnh Độ và những người tới được cõi đó là những chúng sinh đã từ bỏ ác hạnh, những người đã tích tập vô số công đức, và đã chuyên cần thực hành Pháp. Họ có thể đi tới những cõi Tịnh Độ đó, nhưng điều đó rất khó khăn. Còn tất cả những người không từ bỏ ác hạnh, không tích tập rất nhiều công đức, và không thể thực hành một cách nghiêm nhặt thì sao? Tôi sẽ thiết lập một cõi Tịnh Độ để những người đó có thể dễ dàng đi tới. Nguyện tôi giải thoát tất cả chúng sinh không có những phẩm tính siêu nhiên đó của những hành giả đi tới những cõi Tịnh Độ của tất cả những vị Phật khác.” Có nhiều bản văn cầu nguyện (hay thệ nguyện) của Đức Phật A Di Đà lập nên khi Ngài là Dharmakara (Pháp Tạng). Chỉ riêng ở Tây Tạng đã có 500 bản văn cầu nguyện khác nhau. Ở Trung Hoa có nhiều bản văn về việc lập những Đại Nguyện của Đức A Di Đà. Nói chung, có thể nói rằng tất cả những nguyện ước mãnh liệt của Ngài có thể được sắp xếp thành Bốn Mươi Tám Đại Nguyện. Cõi Tịnh Độ Cực Lạc trở thành hiện thực nhờ một trong Bốn Mươi Tám Đại Nguyện đó.
Đây là nguyên nhân sự hiện hữu của Cõi Tịnh Độ Cực Lạc. Cõi Tịnh Độ này không hiện hữu mà không có nguyên nhân. Nguyên nhân của sự hiện hữu này là hoạt động của vị Bồ Tát – bậc đã trở thành Đức Phật A Di Đà.
Nói chung, tất cả chư Phật giữ gìn mọi chúng sinh trong tâm khảm của các Ngài với lòng từ ái và bi mẫn. Bởi lòng đại bi của các Ngài, các Ngài lập những nguyện ước mãnh liệt. Các ngài lập những đại nguyện, làm việc trải qua nhiều đời; trong khi tu hành là những Bồ Tát trước khi thành Phật để ảnh hưởng tới tất cả chúng sinh bằng vô số phương cách. Giống như cọ xát hai cây gậy với nhau đủ lâu và đủ mạnh bạn có thể tạo ra lửa, nhờ tích tập công đức và trí tuệ nguyên sơ thì mọi sự đều có thể được thành tựu. Trong trường hợp này điều được thành tựu là sự thiết lập Cõi Tịnh Độ Cực Lạc ở phương tây của thế giới chúng ta nhờ sự tích tập vô lượng công đức và trí tuệ nguyên sơ của Ngài. Một lần nữa, chúng ta hãy khảo sát sự ẩn dụ của hai cây gậy cần thiết để tạo ra lửa. Lửa không xuất hiện tự nhiên từ một cây gậy. Bạn cần có hai cây gậy và cần nỗ lực cọ xát chúng với nhau bằng một cách thức đặc biệt trong một thời gian. Cuối cùng một tia lửa bật ra từ sự kết hợp của hai cây gậy và lửa bắt đầu cháy. Trong một cách thế tương tự, mọi hiện tượng, mọi thực tại, mọi pháp, đều hiển lộ nhờ sự kết hợp của tánh Không và căn nguyên tương thuộc (duyên sinh.) Mọi sự hoàn toàn có sự quan hệ hỗ tương với nhau. Điều đó được gọi là sự duyên sinh. Đó là một cây gậy. Cây gậy kia là tánh Không: Chân lý của tánh Không, sự hoàn toàn không có sự hiện hữu nội tại của mọi hiện tượng. Hai cây gậy kết hợp với nhau, là bản tánh thực sự của thực tại. Đây là sự thực của mọi sự, của mọi thực tại.
Hãy để cõi Tịnh Độ sang một bên trong chốc lát và hãy khảo sát cõi giới chúng ta đang sống. Thế giới chúng ta thì cũng thế. Nó là sản phẩm của sự hợp nhất bất nhị của sự trong sáng (quang minh) và tánh Không, của hình tướng và tánh Không. Những sự vật xuất hiện trong một cách thế hoàn toàn không bị chướng ngại, và tuy thế chúng không có thực chất. Thực chất của chúng là không [không có tự tánh]. Điều đó có nghĩa là mọi khả năng của kinh nghiệm bắt nguồn từ sự hợp nhất bất nhị của hình tướng và tánh Không. Chúng ta hãy khảo sát sự hiển lộ của thế giới chúng ta hay của cõi Tịnh Độ. Mọi sự không đơn thuần là một sự trống không bởi chúng có xuất hiện, có phải thế không? Ta có thể nhìn thấy rõ ràng mọi sự. Mọi sự dường như có sự hiện hữu và mọi sự có vẻ có một căn bản vật chất trong thế giới chúng ta. Đó là một vế của phương trình biểu thị sự hiển lộ rõ ràng của các hiện tượng, của những kinh nghiệm. Tuy nhiên, vế đó không thể có nếu không có tánh Không. Nếu mọi sự có sự hiện hữu vững chắc, vật chất, nội tại thì không điều gì có thể hiện hữu. Chính nhờ tánh Không mà những sự vật có thể hiển lộ như những hình tướng. Chỉ vì có tánh Không nên mọi sự vật mới có thể hiện hữu. Không có tánh Không thì sẽ chỉ là một khối cứng đặc vững chắc. Như thế thì sẽ chỉ là một vật. Không điều gì có thể hình thành sự hiện hữu tương đối mà không có sự đặt nền chủ yếu trong tánh Không. Vì thế chính nhờ tánh Không mà thế giới chúng ta hiện hữu. Nhờ tánh Không, cõi Tịnh Độ Cực Lạc được thiết lập bởi năng lực của sự nguyện ước, sự tích tập công đức, và trí tuệ nguyên sơ của Đấng giác ngộ A Di Đà. Tôi nghĩ rằng nếu bạn mới đến với Đạo Phật thì điều này thật khó hiểu, nhưng quả thật chỉ nhờ có tánh Không mà có hình tướng.
Bây giờ ta hãy tiếp tục khảo sát những phẩm tính đặc biệt của cõi Tịnh Độ được hình thành nhờ những nguyện ước của Đức Phật A Di Đà được gọi là Cõi Cực Lạc (Dewachen). Ta được biết là có nhiều cõi Phật khác, nhưng để tới được những nơi đó ta phải hoàn toàn đạt được một địa vị cao quý. Ví dụ như để đi tới cõi Tịnh Độ của Đức Phật khác thì phải là một Bồ Tát thập địa hoặc đang tới gần những cánh cổng của sự giác ngộ toàn triệt và viên mãn, và phải tích tập vô lượng công đức. Những chúng sinh bình thường rất khó ước nguyện tới đó. Vì chúng ta mà Đức Phật A Di Đà đã lập những nguyện ước mãnh liệt. Mặc dù cõi Tịnh Độ của Ngài có vẻ rất xa thế giới chúng ta nhưng đối với những chúng sinh như chúng ta thì việc tới được cõi đó cũng tương đối dễ dàng. Đó là nhờ năng lực của những lời khẩn cầu và nguyện ước của Ngài. Như có nói ở trên, hiện có nhiều bản văn những lời nguyện, khẩn cầu và nguyện ước của Đức Phật A Di Đà. Nếu bao gồm chúng trong một câu duy nhất thì tinh túy của những lời nguyện, khẩn cầu, và nguyện ước là: “Cầu mong một Cõi Tịnh Độ được thiết lập để những chúng sinh bình thường với nghiệp bất tịnh, những chúng sinh có ác nghiệp, những người không từ bỏ ác hạnh, có thể đi tới được.” Khi bạn tới những cõi Tịnh Độ của những vị Phật khác, bạn sẽ đạt được giác ngộ nhờ địa vị cao quý bạn đã có trước khi tới đó. Còn ở cõi Cực Lạc, bạn có thể tới đó nhưng điều đó không có nghĩa là bạn đã giác ngộ. Điều xảy ra là bạn sẽ không trở lại vòng luân hồi sinh tử mà đúng hơn, bạn sẽ có mọi điều kiện tích cực và tốt lành để tích tập công đức và trí tuệ nguyên sơ. Ở cõi đó bạn sẽ có thể từ bỏ mọi ác hạnh và thực hành để điều phục và tu hành tâm bạn cho tới khi bạn thuần thục để có thể đạt được giác ngộ. Như thế đó là một sự giới thiệu tổng quát Cõi Cực Lạc.
Bây giờ tôi sẽ giảng về một bài nguyện ước được tái sinh trong Cõi Dewachen (Cực Lạc) do Karma Chagme Rag‐Astrs Rinpoche biên soạn. Trước hết, tôi sẽ bắt đầu với một mô tả về địa hình của cõi Tịnh Độ này. Mặt đất không giống với mặt đất trong thế giới chúng ta. Nó không gồ ghề và phủ đầy đá. Nó hoàn toàn nhẵn và bằng phẳng, và được cấu tạo bởi bụi châu báu. Trong cõi Tịnh Độ Cực Lạc, bạn luôn luôn có một cảm nhận của cái thấy rộng lớn. Nó rất bao la. Không có những sự thay đổi ánh sáng và bóng mát. Một ánh sáng toàn khắp rộng lớn xuất hiện từ thân vật lý của Đức Phật Vô Lượng Quang, Đức Phật A Di Đà. Toàn bộ cõi giới chìm ngập trong sự chói lọi của thân giác ngộ của Đức Phật A Di Đà. Mặt đất không khô rắn. Nó mềm và nếu bạn ngã trên đó, bạn sẽ nảy người lên. Bạn sẽ không bị vấp ngón chân. Ở Dewachen mọi sự đều mềm mại. Ở đó có nhiều cây cối, chúng là những cây châu báu như ý cho bạn bất kỳ những gì bạn cần. Những cành cây đầy chim chóc đủ loại. Tất cả chúng đều là những hóa thân của Đức Phật A Di Đà. Chúng có giọng hót du dương tuyệt vời. Hơn là những tiếng hót bình thường, chúng hót những Giáo Pháp làm tâm bạn hoan hỉ và an bình.
Mọi người ở đó được nghe âm thanh du dương của Pháp đều trở nên an lạc, hạnh phúc, và hài lòng. Có nhiều sông, suối và những con lạch và nước thì không phải là nước bình thường. Nó là nước hoa. Có những cái hồ mà bạn có thể nghỉ ngơi ở đó và tắm nước hoa. Mặt đất phủ đầy hoa sen rực rỡ và thơm ngát, nó nở ra và từ nhụy của mỗi hoa sen hóa hiện vô số tia sáng. Trên đầu mỗi tia sáng là một vị Phật. Tất cả chư Phật đều thuyết giảng Pháp. Nhờ nghe các Ngài giảng Pháp tâm bạn rũ sạch mọi cảm xúc tiêu cực. Trong Cõi Cực Lạc không có bệnh tật, không có sự nghèo khó, sự già nua và sự chết. Không có sự phân biệt giữa người này và người khác. Tất cả đều tuyệt đẹp. Tất cả đều đầy ắp những phẩm tính tốt lành. Không có những thiếu sót, những lỗi lầm, những ô nhiễm, không có các loại đau khổ, thậm chí từ ‘đau khổ’ cũng không được nghe thấy ở cõi Tịnh Độ Cực Lạc.
Cách thức để được sinh ra ở Dewachen là lập một niềm tin và ước nguyện mạnh mẽ đối với cõi Tịnh Độ, và khát khao được sinh ra ở đó. Khi bạn sinh ở cõi đó, bạn không sinh bằng một tiến trình bình thường. Trong thế giới của ta, hết thảy chúng ta đều tới đó trong sự khổ nhọc và làm việc trong sự buồn phiền. Ở nơi đây sự sinh ra là một tiến trình đau đớn. Ở Cõi Dewachen, bạn không sanh ra nhờ một thai tạng, mà đúng hơn bạn được sinh một cách kỳ diệu trong nhụy một hoa sen nở. Nếu bạn cầu nguyện với sự nhất tâm và niềm tin nhiệt thành mãnh liệt được sinh ra ở đó thì bạn sẽ được như ý. Nếu bạn nuôi dưỡng bất kỳ mối nghi ngờ nào thì bạn vẫn được sinh ở đó nhưng sẽ sinh trong một bông sen chưa nở. Bạn được tắm trong ánh sáng chói ngời của Đức Phật nhưng bạn không thể nhận ra mọi phẩm tính của cõi Tịnh Độ và không thể tùy ý du hành đây đó. Bạn ở trong một bông sen khép miệng cho tới khi những vết tích sau cùng của sự hoài nghi và tiêu cực bị tẩy trừ. Khi ấy bông sen sẽ nở ra. Nếu bạn không có chút nghi ngờ nào thì bạn được sinh trong một bông sen nở. Điều này gắn liền với loại nguyện ước được tái sinh trong Cõi Tịnh Độ mà bạn đã lập nên vào lúc chết. Hãy lưu giữ trong tâm sự phân biệt hết sức quan trọng này giữa hai loại sinh ra khác nhau trong cõi Tịnh Độ. Điều tối quan trọng là phải lập nguyện ước đúng đắn được tái sinh vào lúc chết. Hãy làm điều này một cách mạnh mẽ không chút nghi ngờ. Nếu bạn cho phép sự hoài nghi đi vào tâm bạn thì bạn sẽ sinh trong một bông sen khép miệng. Nếu vào lúc chết bạn lập nguyện ước mạnh mẽ này thì khi ấy, không phải trải nghiệm bất kỳ điều gì, bạn được sinh trong nhụy một bông sen nở trước sự hiện diện của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà. Một trong những phẩm tính kỳ diệu của việc được tái sinh trong Cõi Cực Lạc là nếu bạn từng đọc những quyển sách mỏng về việc du hành tới những cõi Tịnh Độ khác thì bạn có thể đi tới đó lập tức ngay khi ước muốn điều đó. Bạn có thể di chuyển một cách thần diệu tới bất kỳ cõi Tịnh Độ nào khác chỉ bằng cách lập nguyện tới nơi đó. Từ thế giới này, bạn không thể tức thì đi tới cõi Tịnh Độ khác, nhưng từ cõi Tịnh Độ Cực Lạc thì bạn có thể. Bạn có passport, visa, và mọi loại vé cần thiết để đi tới mọi Tịnh Độ của bất kỳ Đức Phật nào, ở mọi phương và bất cứ khi nào bạn muốn.
Khi bạn sinh trong một hoa sen nở, bạn vẫn chưa viên mãn. Bạn đã tẩy trừ khỏi dòng tâm thức của bạn mọi điều tiêu cực, mặc dù bạn chưa là Phật nhưng bạn được sinh trong một hình thức có nhiều phẩm tính tích cực giống như những phẩm tính của một vị Phật. Bạn được sinh ra với một thân sắc vàng rực rỡ. Bạn có những năng lực siêu nhiên và siêu giác. Bạn được thụ hưởng năm loại năng lực siêu giác. Phẩm tính khác mà bạn có như một hài nhi là mọi vật bạn cần để cúng dường chư Phật mà hiện nay bạn nhận thức bằng đôi mắt vật lý của bạn thì ở cõi Tịnh Độ, chúng sẽ tự động hiển lộ trong đôi bàn tay bạn. Bằng cách ấy bạn có thể dễ dàng tích tập công đức và hoàn thiện nó để tích tập trí tuệ. Hơn nữa, cuối cùng thì sự tích tập công đức và trí tuệ đưa tới Phật Quả sẽ xảy ra rất nhanh chóng trong Cõi Tịnh Độ Cực Lạc. Trái nghịch với những cõi Tịnh Độ khác, trong cõi Dewachen (Cực Lạc) tiến trình tích tập công đức và trí tuệ rất nhanh chóng. Chính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói: “Do đó việc cầu xin được tái sinh ở cõi Dewachen tích tập công đức nhiều như thể con cúng dường bảy loại ngọc quý và những châu báu khác đầy tràn ba ngàn thế giới (được đề cập trước đây).” Nói chung, chúng ta có thể nói rằng bất kỳ chúng sinh nào nghe danh hiệu của Đức Phật A Di Đà (phù hợp với những Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà) lập nguyện tái sinh trong cõi Dewachen và dấn mình vào thực hành đó đều có thể được tái sinh trong cõi Dewachen. Những người từng tích tập sự tiêu cực của năm trọng tội thì khó đạt được điều đó. Mặc dù thế, ngay cả đối với những người tội lỗi nặng nề như thế, nếu họ thực hành mãnh liệt thì họ vẫn có thể được tái sinh trong cõi Dewachen.
Tóm lại, về những giáo lý của Đức Phật A Di Đà và Cõi Tịnh Độ Cực Lạc thì thực hành này rất phổ biến trong tất cả những quốc gia theo Phật Giáo Đại thừa. Tại sao thế? Đó là bởi tính chất của những lời nguyện của Đức Phật A Di Đà. Thực hành Đức Phật A Di Đà và Cõi Tịnh Độ thích hợp với những người bình thường và ai cũng có thể thực hành. Bạn không phải là một đại nhân cao quý đã từ bỏ mọi ác hạnh. Bạn không phải là một hành giả tuyệt vời. Tùy thuộc vào năng lực những lời nguyện của Đức Phật A Di Đà, bạn có thể dấn mình vào thực hành này. Đây là một thực hành Kinh thừa. Do đó, nó là Pháp môn mọi người có thể thực hành. Nó rất dân chủ và được dành cho tất cả mọi người.
Hỏi: Một khi đã được sinh trong cõi Tịnh Độ, liệu ta có những cơ hội quay trở lại thế giới này để giúp chúng sinh đạt được Giác ngộ?
Đáp: Mục đích của việc tái sinh trong cõi Tịnh Độ Cực Lạc là để đạt được Phật Quả. Vì thế, ý nghĩa của cõi Tịnh Độ Cực Lạc là bạn đã có được mọi điều kiện tốt lành để đạt được sự Giác ngộ toàn triệt và viên mãn. Khi bạn hoàn toàn giác ngộ thì trạng thái đó không phải là sự Giác ngộ phiến diện để an nghỉ trong Niết Bàn. Nó là sự Giác ngộ Đại thừa được đặt nền trên tánh Không, chứng ngộ rằng Niết Bàn và sinh tử không phải là điều để bám luyến. Điều then chốt của mọi thực hành Đại thừa là lòng Đại Bi. Tự thân cõi Tịnh Độ được thiết lập bằng năng lực Đại Bi của Đức Phật A Di Đà. Nếu bạn chứng ngộ tánh Không thì khi ấy lòng bi mẫn tự động hiển lộ. Tánh Không đó cùng với lòng bi mẫn ‐ là những gì tạo nên Phật Quả – cũng tạo thành sự giải thoát toàn triệt và viên mãn. Khi bạn giải thoát như thế, bạn sẽ không bị hạn chế đối với cõi Tịnh Độ Cực Lạc. Bạn có thể mang bất kỳ cách thế hiển lộ nào bạn muốn. Bạn có thể đi tới bất kỳ cõi Tịnh Độ nào bạn muốn. Bạn không ngừng hiển lộ trong vô vàn phương cách khác nhau vì hạnh phúc của tất cả chúng sinh.
Hỏi: Ở một mặt, việc được tái sinh ở Cõi Cực Lạc nghe có vẻ thật dễ dàng. Ở mặt khác thì vào lúc đó để có được sự an lạc thực sự ta sẽ phải củng cố bản thân, thực sự ước muốn thành tựu Bồ Đề tâm. Do đó đường như có một thách thức to lớn trong việc ước muốn giúp đỡ người khác và không chỉ quan tâm tới bản thân. Vì thế việc ấy không thật dễ dàng.
Đáp: Việc tái sinh trong Cõi Dewachen (Cực Lạc) chỉ khó khăn nếu bạn mắc phạm một trong Năm Trọng tội Không chuộc lỗi được. Nếu bạn không phạm một trong những tội đó thì rất dễ dàng, bởi tất cả những gì bạn cần làm thì tuỳ thuộc vào năng lực của việc hình thành những nguyện ước mãnh liệt được tái sinh trong Cõi Cực Lạc. Điều mà năng lực đó làm là hợp nhất bạn với sự đối trị với mọi che chướng và sự phi‐đạo đức của bạn. Đó là năng lực của đại nguyện của Đức Phật A Di Đà. Yếu tố khác góp phần khi bạn hình thành nguyện ước để nối kết sự thực hành này và được tái sinh trong cõi Tịnh Độ. Lý do khác khiến ta rất dễ dàng được tái sinh là giây phút chết chính là mỗi khoảnh khắc. Giáo Pháp dạy rằng mọi sự ở trong trạng thái thay đổi liên tục. Mọi sự đều vô thường và hướng tới cái chết trong mọi lúc, vì thế trong mỗi khoảnh khắc, cái gì đó chết đi và cái gì đó tái sinh. Kinh nghiệm của bạn ra sao thì tùy thuộc vào việc tâm bạn được hướng tới thế nào. Tư tưởng hiện tại của bạn sẽ đưa dẫn tới kinh nghiệm theo sau của bạn. Nếu bạn thiết lập một nguyện ước liên tục từ khoảnh khắc này tới khoảnh khắc khác, thấu hiểu rằng bất kỳ khoảnh khắc nào cũng có thể là lúc chết, trong mỗi khoảnh khắc bạn đều khao khát được tái sinh trong Cõi Dewachen, thì bạn đã thiết lập sự tương tục của nguyện ước đó. Điều đó sẽ là kinh nghiệm của bạn. Nguyên nhân trong khoảnh khắc đó sẽ tạo nên kết quả trong khoảnh khắc kế tiếp. Mọi sự là sự chuyển hóa trong tâm thức.
Hỏi: Rinpoche, ngài có thể giảng thêm cho chúng con về ánh sáng trong những bông sen khép lại? Làm thế nào ánh sáng ấy chiếu sáng chúng?
Đáp: Trong Cõi Cực Lạc, mọi sự được thấm đẫm ánh sáng. Giống như mọi sự khác ở trong và khắp Cõi Cực Lạc, nó là một hóa thân của Đức Phật A Di Đà. Nó là toàn bộ Đức Phật A Di Đà. Mọi sự được tri giác trong Cõi Cực Lạc là một sự trải rộng của Đức Phật A Di Đà. Ánh sáng là Ánh sáng của lòng Bi mẫn. Chính Ánh sáng của lòng Bi mẫn làm thuần thục chúng sinh.
Hỏi: (không nghe rõ)
Đáp: Sự hình thành của lời nguyện tái sinh trong Cõi Cực Lạc là một vấn đề cá nhân. Bạn không thể phát triển một nguyện ước nhân danh người nào khác. Tuy nhiên bạn có thể giúp đỡ người khác bằng cách lập lại cho họ nghe danh hiệu của Đức Phật A Di Đà và cho họ biết sự hiện hữu của Đức Phật A Di Đà trong cõi Tịnh Độ. Ta được biết rằng ngay cả việc nghe danh hiệu A Di Đà cũng rất ích lợi. Một điều khác mà bạn có thể làm để giúp đỡ người khác là vào lúc họ chết bạn có thể làm những thực hành A Di Đà khác nhau. Chẳng hạn như vào lúc chết bạn có thể thực hiện Ph’owa, và đó là một thực hành chuyển di tâm thức của người chết ra khỏi thân họ. Những nghi lễ và puja khác được thực hiện vào lúc đó. Có một nghi thức được gọi là Shitje. Nó là nghi lễ được thực hiện vào lúc chết. Nhiều điều có thể được thực hiện mặc dù người ấy đã chết. Yếu tố tâm thức của họ được nhắm tới và được hướng dẫn bằng những cách khác nhau.
Hỏi: (nghe không rõ)
Đáp: Chúng ta phải nói một chút về tánh Không. Những giáo lý tánh Không tuyệt nhiên không khẳng định rằng những gì ta tri giác thì tuyệt đối không hiện hữu. Chúng ta không nói rằng các sự vật được cấu tạo bằng những nguyên tử và phân tử và có thực tại vật chất (theo nghĩa đen) không hiện hữu, và trong ý nghĩa đó, thì huyễn hóa. Chúng ta đang nói rằng chúng không có tự‐tánh. Chúng không có sự hiện hữu nội tại. Chúng không có thực tại vững chắc, có thật, tương ứng với cách thức xuất hiện của chúng. Chúng có vẻ hiện hữu một cách nội tại, nhưng không phải như vậy. Đây là giáo lý của Phái Trung Đạo vĩ đại – Madhyamika. Ở đây có hai trường phái khác nhau , Phái Duy Tâm (Cittamatra) nói rằng mọi sự tự chúng là tâm. Điều duy nhất thực sự hiện hữu là tâm và mọi điều khác chỉ là một sự phóng chiếu của tâm. Giáo lý Mahamudra (Đại Ấn) nói rằng bản tánh thực sự của thực tại thì siêu vượt việc chấp nhận hoặc có hoặc không, chẳng có chẳng không, cũng có cũng không. Điều này được gọi là ‘Bốn Cực đoan’ (Tứ cú). Quan điểm Mahamudra siêu vượt chúng. Đứng ở bình diện chân lý tương đối của ta, trong tiếng Tây Tạng nói là ‘Kun‐zop Dempa’ có nghĩa là một câu mê hoặc. ‘Dempa’ có nghĩa là chân lý. ‘KunZop’ nghĩa là hoàn toàn sai lầm. Vì thế ‘chân lý hoàn toàn sai lầm’, chân lý tương đối là kết quả của tri giác sai lầm của ta. Chúng ta tri giác các sự vật có sự hiện hữu nội tại trong khi thực ra chúng không có. Tâm thức chúng ta bám chấp vào điều ta tri giác là vững chắc và thực có. Bởi sự bám chấp trong tâm thức này, ta vật chất hóa điều mà trong thực tế thì trống không. Đó là một sai lầm. Mọi hiện tượng là kinh nghiệm của ta. Chúng được kinh nghiệm bởi và trong tâm ta. Nếu khác đi thì không thể có kinh nghiệm. Mọi sự xuất hiện bên ngoài là một phóng chiếu của tâm trong ý nghĩa rằng nó được kinh nghiệm bởi tâm. Nó không có sự hiện hữu nội tại vững chắc từ khía cạnh riêng của nó. Đó là một sự sai lầm trong tri giác.
Hỏi: Có cách nào khiến ta có thể ở trong cõi Tịnh Độ, ngoại trừ vào lúc chấm dứt sự sống theo nghĩa đen. Mặt khác, đây có phải là điều có thể đạt tới trong đời sống hiện tại? Có thể đi tới cõi Tịnh Độ trong đời này?
Đáp: Có, khi hơi thở sau cùng đã được thở ra, trước khi hơi thở kế tiếp được thở vào. Vào lúc đó, có một cái chết và một sự tái sinh. Ở đó bạn có thể kinh nghiệm cõi Tịnh Độ trong khoảng thời gian giữa những hơi thở.
Hỏi: Rinpoche, ngài nói rằng ta có thể kinh nghiệm cõi Tịnh Độ trong khoảng giữa đó, vậy trong trường hợp đó, cái gì là cõi Tịnh Độ?
Đáp: Cái gì thực sự là cõi Tịnh Độ? Cõi Tịnh Độ là giác tánh nguyên sơ không ô nhiễm của riêng ta. Nếu từ khoảnh khắc này cho tới khoảnh khắc khác, bạn hồi quang phản chiếu và vẫn duy trì được bản tánh giác ngộ nguyên sơ của bạn thì đó là cõi Tịnh Độ. Mọi sự đến từ bổn tâm bạn. Hãy thấu hiểu điều đó, hãy an trụ ở đó: đó là cõi Tịnh Độ.
Hỏi: Nếu sự duyên sinh xuất hiện trong tánh Không thì làm thế nào nó có thể hiện hữu nếu không có sự tạo tác trong tánh Không?
Đáp: Tánh Không và sự duyên sinh thì bất nhị. Chúng là một. Ngay cả khi nói bất nhị là đã sai lạc rồi, bởi điều đó hàm ý rằng có thể có một sự nhị nguyên được vượt qua. Từ vô thủy, chúng luôn luôn là một. Không có sự khác biệt giữa chúng. Nó không giống như có hai phần. Khi bạn nhìn tánh Không và sự duyên sinh một cách nhị nguyên thì đó là sự loại suy của samsara, vòng luân hồi sinh tử. Hãy vượt qua sự nhị nguyên và bạn đồng thời nhìn thấy nhân và quả. Khi đó mọi sự đồng xuất hiện. Đó là tánh Không và sự duyên sinh viên mãn, bất nhị. Trong bản văn, nhiều ví dụ đã được sử dụng để minh họa chân lý này của sự hợp nhất tánh Không và sự duyên sinh. Tuy nhiên chúng ta hãy lấy ví dụ chiếc tách này. Như một sự hiển lộ hay xuất hiện tương đối được cơ cấu tri giác của ta kinh nghiệm, chiếc tách là một cái gì phức hợp. Nó được cấu tạo bởi những phần tử nhỏ bé. Phải vậy không? Nó được tạo bởi những nguyên tử và phân tử trở thành những chất thể đặc biệt là đất, nước, gió, và lửa. Tất cả những sự vật này được kết hợp trong một cách thế như để tạo nên cái ta gọi là chiếc tách. Sau đó nó được trang trí, vẽ lên và được khắc chạm. Đó là cái gì được tạo nên mà tiếng Tây Tạng chúng tôi nói là ‘Dutshe’: phức hợp, cái gì đó được tạo nên. Những nhân và duyên được tập họp lại theo một cách để tạo nên một sự hiển lộ tương đối mà ta có thể sử dụng và tác động lẫn nhau và nhận thức như điều ta gọi là một chiếc tách. Tuy nhiên, nếu từ khía cạnh riêng của nó và không phụ thuộc vào những nhân và duyên thì không có sự vật gì gọi là chiếc ‘tách’. Không có điều gì xuất hiện như chiếc ‘tách’ tự nó và thuộc về nó mà tách biệt với toàn thể tiến trình những nhân và duyên cùng tụ hội. Nó không có bản chất. Bản chất của nó thì trống không. Trong Kinh ‘Prajna Paramita Hydraya’ (Tâm Kinh): “Sắc tức là Không, Không tức là sắc, sắc không khác Không, Không không khác sắc.” Mọi hiện tượng có cùng bản tánh chính xác đó. Bất kỳ điều gì được kinh nghiệm trong luân hồi sinh tử hay sự siêu vượt của nó đều có đồng một bản tánh chính xác đó. Bản chất của nó trống không và nó được kinh nghiệm như một kết quả của sự duyên sinh. Tri giác những sự vật như những thị kiến xen kẽ của tánh Không và sự duyên sinh thì vẫn là một chúng sinh bình thường. Vượt qua thị kiến nhị nguyên, tri giác các sự vật đồng thời là tánh Không và sự duyên sinh, thì đó là Phật. Vị Thánh vĩ đại Nagarjuna (Long Thọ) nói: “Luân hồi sinh tử và sự siêu vượt của nó (sinh tử và Niết Bàn) không phải là hai. Việc thấu hiểu bản tánh của luân hồi sinh tử trong bản chất của nó là sự siêu vượt.”