Những ngày quý báu của chúng ta
Đời người là quý báu với nhiều tiềm năng
Nhưng cũng vô thường và đầy chuyện không như ý.
Vì vậy chúng ta phải tận dụng kiếp này để rèn luyện tâm linh ngay từ bây giờ. Quá trình làm người của chúng ta – từ lúc chúng ta được thụ thai cho đến lúc chết – là giai đoạn ta có nhiều vui thú và nhiều thành tựu, đấy là suối nguồn của những lợi lạc lớn lao. Nhưng cuộc sống cũng đầy rẫy những khổ đau không thể tránh được, cả về mặt vật chất lẫn tinh thần. Ngay cả một cuộc đời khốn khổ dường như cũng trôi qua rất nhanh, trong khi một cuộc đời sung sướng cũng qua đi với một cảm giác không trọn vẹn. Đời người thật phù du và rất đáng thất vọng vì chúng ta cứ phải trải qua những lúc sung sướng rồi những lúc đau khổ mà có vẻ như chúng ta không thể chủ động gì được cả.
Đời người bắt đầu từ khi ta được thụ thai và chấm dứt với một cơn bệnh không qua khỏi được hay bởi một nguyên nhân nào đó. Thân xác và tâm thức chung sống hòa hợp cho tới khi chúng ta còn thở và cơ thể chúng ta vẫn còn hơi ấm. Khi hơi thở ngưng lại và hơi ấm không còn nữa, tâm thức và thân xác chia lìa, và ta chết .
BẢN CHẤT THẬT SỰ CỦA CHÚNG TA LÀ GÌ? Thân xác không phải là thân phận thật của chúng ta. Nó chỉ là căn nhà trọ mà tâm thức chúng ta ở tạm một thời gian thôi. Khi tâm thức và thân xác chia lìa, thân xác sẽ tan rã thành các thành tố tự nhiên đã tạo ra nó và sẽ vĩnh viễn biến mất. Nhưng tâm thức của chúng ta sẽ vẫn còn đó. Tâm thức sẽ tiếp tục tồn tại bằng cách tái sinh vào một thân xác khác và một thân phận khác tùy theo chuỗi những khuynh hướng thói quen trong quá khứ của chúng ta, tức là nghiệp. Số phận tương lai của chúng ta – chúng ta sẽ sung sướng hay đau khổ – tùy thuộc vào những khuynh hướng thói quen của chúng ta, những khái niệm tinh thần và những cảm xúc đã ăn sâu trong con người chúng ta, cũng như những thể cách mà ta biểu hiện tất cả những thói quen đó bằng lời nói và hành động.
Bản chất thật sự của tâm là rộng mở và thanh tịnh. Tính chất tự nhiên của tâm là an lành, hỷ lạc, thông tuệ và nhân từ. Tính chất đó được gọi là giác tính hay Phật tính. Trong tiếng Phạn, từ
buddha (Phật) có nghĩa là “tỉnh thức” hay là “đấng tỉnh thức”. Mỗi chúng sinh, mỗi chúng ta đều có giác tính. Đó là trí tuệ không bị ràng buộc bởi những điều kiện tự giới hạn của tư duy nhị nguyên vốn thường chia tách những kinh nghiệm thành chủ thể và khách thể, “ta” và “người khác”. Bản chất thật sự của tâm là toàn trí, toàn thức, nhìn thấy tất cả một cách đồng thời và bất nhị, như là nhất thể không có giới hạn nào cả. Trong cái bản chất phổ quát tối hậu của chúng ta, không phải chỉ tâm của chúng ta là toàn trí toàn thức, mà không gian còn là vô biên và thời gian là vô tận .
Vậy thì do đâu mà phần lớn chúng ta không hề hay biết gì về những điều tuyệt vời đó đang ẩn trong tâm chúng ta? Lý do là vì những tính chất thật sự ở bên trong tâm chúng ta bị che lấp bởi những quan niệm nhị nguyên đã thành thói quen của chúng ta, một trạng thái luôn phân biệt vốn thường xuyên nhấn mạnh tính nhị nguyên và tính đối lập của mọi việc, những tâm trạng phiền não và những cảm giác tham đắm. Vì vậy mà bản chất thật sự của chúng ta trở nên xa lạ với chúng ta. Tuy vậy dù chúng ta thường nuôi dưỡng những cảm xúc tiêu cực nào của chấp thủ hay ghét bỏ, thì trí tuệ thiên bẩm của chúng ta cũng vẫn không bị vấy bẩn và phiền não.
Để có thể khám phá bản chất thật sự của tâm chúng ta, chúng ta phải bắt tay vào việc thiền định thâm sâu với sự tận tâm tận lực. Chúng ta phải nhận rõ và suy nghĩ những phương cách đúng đắn về kiến giải, tư duy, cảm nhận, tin tưởng và hiện hữu. Nhưng cho dù chúng ta chỉ có khái niệm rằng chúng ta có được một bản chất thanh tịnh và thiện lành bên trong chúng ta, thì chỉ chừng đó thôi cũng sẽ giúp ta vun đắp lòng tự tin, tăng cường sự tu tập của chúng ta và thúc đẩy chúng ta hướng tới mục tiêu đúng đắn.
Một số người có thể nghĩ rằng tâm chúng ta có đặc điểm là quá cứng nhắc và bền vững nên khó uốn nắn theo xu hướng tâm linh mới. Chúng ta có thể tin rằng chúng ta đã bị lún quá sâu vào những thói quen tiêu cực nên khó chấp nhận những cách tư duy và cảm nhận mới. Tuy vậy, trên thực tế, mỗi phút giây là một cơ hội để bắt đầu lại, hay để thay đổi phương hướng và tính chất cuộc sống của chúng ta.
Trái với những gì chúng ta tưởng, tâm chúng ta không phải là một dòng chảy duy nhất và cứng nhắc. Nó không liền một khối như một thanh sắt. Nó là một chuỗi gồm nhiều quãng thời gian ngắn riêng biệt luôn thay đổi từng giây từng phút như những hạt của tràng hạt ở trong tay chúng ta thay đổi liên tục. Mỗi một sự kiện là một chuỗi khởi sinh và đoạn diệt xảy ra liên tục, một kinh nghiệm mà trước nó có sự kết thúc của một sự kiện khác và theo sau nó là sự khởi đầu của một sự kiện kế tiếp. Cái cảm tưởng rằng đời sống chúng ta là một chuỗi thời gian liền lạc không gián đoạn chỉ là một ảo giác – giống như ảo giác khiến ta nhìn thấy một vòng ánh sáng liền lạc được tạo ra khi những em bé quay nhanh cây đèn pin hay một que củi đang cháy trong bóng tối.
Nếu chúng ta thấy chán nản hoặc cảm thấy bế tắc, thường là vì chúng ta không thật sự hiểu tính cách giả tạm của đời sống. Chúng ta bám víu vào các sự kiện như những đối tượng của tâm và xem chúng như những thực thể đang tồn tại thật sự. Trên thực tế, những sự kiện đã thay đổi trước khi chúng ta có thể suy nghĩ về chúng. Khi chúng ta suy nghĩ về những sự kiện thì chúng chỉ là những cái bóng, những phản chiếu của những gì đã xảy ra rồi.
Mỗi một sự kiện, mỗi phút giây đều mới mẻ, tươi tắn, như mới sinh ra. Con người chúng ta vẫn còn uốn nắn được, và chúng ta có thể tự giáo dục và tự luyện tập như ta giáo dục và luyện tập một em bé mới sinh. Bằng thiền định, chúng ta có thể cải thiện mình trong mỗi phút giây và nhờ vậy khám phá được giác tính của chúng ta.
Tại sao phải thiền định?
Một số người thắc mắc tại sao chúng tôi lại xem thiền định là quan trọng. Họ xem thiền định như là một thứ đam mê và còn là ích kỷ nữa và họ thường hỏi: Nếu bạn chỉ ngồi và tận hưởng sự an lạc trong tâm của bạn thì bạn làm gì được cho xã hội? Làm sao bạn có thể nói là bạn quan tâm đến người khác?
Quả là đáng buồn khi một số người hiểu về thiền như vậy. Nhưng có lẽ chúng ta không nên ngạc nhiên vì không phải ai cũng dễ dàng nhận thấy những lợi ích của thiền định.
Trên thực tế, bất kỳ điều gì chúng ta suy nghĩ và cảm nhận đều làm phát sinh một dấu ấn tích cực hay tiêu cực tương ứng trong tâm thức. Những tư tưởng vô ngã, an bình và hỷ lạc sẽ sinh ra những hình thái, âm thanh và tình cảm tốt đẹp nhất; những tư tưởng tiêu cực sẽ sinh ra quỷ sứ và những âm thanh khủng khiếp. Nhưng chỉ khi nào chúng ta rời bỏ xác thân thô kệch của chúng ta và đi vào thân trung ấm thì chúng ta mới nhìn thấy, nghe thấy những hình ảnh và âm thanh đó được. Vấn đề này sẽ được đề cập sau.
Thiền định là một công cụ rất mạnh mẽ để tạo ra những hình tướng, âm thanh và tình cảm linh diệu có thể giúp chúng ta và vô số những người nào khác sẵn sàng tiếp nhận chúng. Đặc biệt, chúng sinh trong thân trung ấm rất dễ tiếp thu thiền định và những lời cầu nguyện vì họ sống trong thế giới của niệm tưởng. Không có thân xác vật chất để neo buộc họ lại, khi họ nghĩ “New York” thì họ đã có mặt ngay ở New York, nếu ngay sau đó họ nghĩ “London” thì họ có mặt ngay ở London, nghiệp lực cho phép xảy ra như vậy. Bị cuốn đi như thế, họ thường cảm thấy kiệt sức, sợ hãi và cô đơn.
Sự an bình, hỷ lạc và từ bi được chúng ta tạo ra bằng thiền định cung cấp một nơi ẩn náu an toàn mà chúng sinh trong thân trung ấm có thể nghỉ ngơi và tìm lại được tin tưởng và an lạc. Thiền định là một phương cách mạnh mẽ để giúp đỡ những chúng sinh này hơn là những ý nghĩ và tình cảm lan man thông thường của chúng ta, vì thiền định đến từ một tầng sâu hơn và an bình hơn trong tâm chúng ta. Giống như một thanh nam châm, tâm vững vàng thì lôi cuốn được những tâm thức trôi nổi và ổn định chúng. Chúng ta thiền định càng lâu thì càng có thể an ủi những chúng sinh lâu hơn và cơ may để cải thiện tương lai của họ cũng lớn hơn.
Thiền định cũng giúp ta đóng góp nhiều cho những người sống nữa. Khi tâm chúng ta chất chứa đầy những cảm xúc tiêu cực, nếu chúng ta muốn giúp đỡ những người khác, cho dù chỉ về mặt vật chất mà thôi thì chúng ta có thể làm cho họ nhiễm những điều xấu của chúng ta.
Thiền định là một phương cách để làm thanh khiết những bất tịnh của chúng ta, tăng cường những phẩm chất thiện lành và đánh thức bản chất thật sự của chúng ta. Thiền có thể là một trải nghiệm của những phẩm chất thiện lành chẳng hạn như sự tận tụy, sự an bình, tình yêu thương, và sức mạnh được tạo ra từ những tư tưởng và tình cảm chân thành. Đây là thiền định dựa trên khái niệm. Hoặc thiền định có thể là một trải nghiệm của tâm thái tỉnh giác. Đó là thiền phi khái niệm. Cả hai đều là một trải nghiệm, một sự chứng đắc giúp thanh tẩy và mang lại cho chúng ta những kho báu bất tận của tình yêu thương, an bình, hỷ lạc và tận tụy; do đó làm đời sống chúng ta tốt đẹp hơn và đồng thời giúp tăng cường khả năng phục vụ tha nhân của chúng ta. Khi tâm chúng ta tràn đầy những phẩm chất này, những ngôn từ và hành động của chúng ta tự nhiên sẽ biểu đạt và phản ánh những phẩm chất đó. Chúng ta trở thành một nguồn yêu thương, an bình và hỷ lạc đối với tất cả những ai gần gũi với chúng ta. Chỉ sự có mặt của chúng ta thôi cũng mang lại sự khuây khỏa cho người khác. Do đó chúng ta không thể thờ ơ với gốc rễ của một cái cây nếu chúng ta muốn thụ hưởng hoa quả của cây đó, vậy thì chúng ta cũng không thể thờ ơ với tâm của chúng ta nếu chúng ta muốn mang lại lợi lạc cho người khác.
Nhiều người trong chúng ta biết sự quan trọng của thiền định, ít nhất là về mặt tri thức; nhưng chúng ta trì hoãn việc thực hành thiền định hoặc không thiền định một cách toàn tâm toàn ý. Lý do là thường thường chúng ta không đưa sự hiểu biết tri thức lên tới mức độ tình cảm. Nếu chúng ta gắn tình cảm của chúng ta vào thì không có gì có thể ngăn cản chúng ta thực hành thiền định. Vậy làm sao để chúng ta đến với việc thực hành thiền định?
Thông thường có hai thứ động cơ thúc đẩy ta đến với việc thực hành thiền định: một là ta được một người nào đó truyền cảm hứng cho; hai là khi ta bị một cú “sốc” hay một nỗi sợ hãi. Trong cuộc sống luôn có nhiều động cơ thúc đẩy như vậy. Ví dụ như gặp được một vị thầy mà ta thán phục có thể là một nguồn cảm hứng mang tính quyết định đối với ta. Hoặc đôi khi phải có một biến cố như ta bị bệnh nặng, hay một người thân đột ngột qua đời hay một bi kịch có quy mô rộng lớn như thảm họa sóng thần ở Nam Á và Đông Nam Á để đánh thức ta ra khỏi những lôi kéo của đời sống hằng ngày.
Đạo Phật khuyên ta suy nghĩ sâu sắc về năm khía cạnh của cuộc đời có thể tạo cho ta cảm hứng hoặc làm cho ta bị “sốc” hay sợ hãi:
- Có một cuộc sống đạo hạnh là hiếm và quý báu.
- Cuộc đời là vô thường và luôn thay đổi.
- Tất cả những chuyện xảy ra ở đời đều là hậu quả do nghiệp gây ra.
- Cuộc đời đầy rẫy những khổ đau.
- Cuộc sống của mỗi người có tiềm năng đạt được những mục đích cao nhất.
Những điều trên không phải là được bịa đặt ra để khiến chúng ta thực hành thiền định. Đó là những sự thật hiển nhiên về cuộc đời của chúng ta. Có điều là chúng ta cần phải quan tâm một cách sâu sắc về những điều này vì nếu không, chúng ta sẽ xem chúng ta cứ chấp nhận đời là như vậy, rồi hoặc là chúng ta không muốn nghĩ đến những chuyện đó vì cảm thấy không thoải mái chút nào. Tại tu viện của chúng tôi ở Tây Tạng, mỗi buổi sáng chúng tôi đều bắt đầu buổi thiền định bằng cách quán chiếu năm vấn đề nêu trên. Tuy nhiên, không nhất thiết phải ngồi nhất tâm tu định để suy nghĩ về những điều này. Chúng ta có thể suy nghĩ về chúng bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào. Khi chúng ta suy nghĩ như vậy, chúng ta sẽ thấy những điều này dạy cho chúng ta biết rõ bản chất cuộc đời và chúng đưa chúng ta đi vào con đường tâm linh đúng đắn, làm khởi sinh trong ta lòng nhiệt thành và sự dấn thân để theo thực hành thiền định cho rốt ráo.
CUỘC SỐNG QUÝ BÁU CỦA CON NGƯỜI LÀ HIẾM CÓ Cuộc sống làm người quý báu của chúng ta cung cấp cho chúng ta nền tảng để làm tốt đẹp hơn không chỉ đời này mà còn những đời sau nữa. Đời người cho ta cơ hội để đạt chứng ngộ, để có được cuộc sống an lạc thật sự và dễ dàng làm lan tỏa những phẩm chất đó để mang lại lợi lạc cho vô số chúng sinh, và chúng ta sẽ trở thành một nguồn an bình và hỷ lạc cho vũ trụ.
Nếu chúng ta nhận biết được rằng cơ hội này vô cùng quý giá và hiểu được giá trị đời sống của chúng ta thì tức khắc chúng ta sẽ cảm thấy vô cùng trân trọng và biết ơn những ơn phước của cuộc đời mà chúng ta được hưởng. Sự biết ơn này sẽ biến thành một quyết tâm mạnh mẽ khiến ta không bao giờ bỏ phí một phút giây của cuộc đời này và hiến dâng trọn vẹn cuộc đời này theo cách tốt nhất mà chúng ta có thể làm được.
Chúng ta hãy suy nghĩ xem có bao nhiêu chúng sinh trong thế giới này có được cơ hội lạ thường như chúng ta, nhờ suy nghĩ như thế chúng ta sẽ ý thức được mình may mắn biết chừng nào. Nhìn chung quanh, chúng ta có thể thấy vô số chúng sinh trong thế giới này. Nếu ta lật một tảng đá lên, ta có thể thấy vô số côn trùng đang bò bên dưới tảng đá. Nếu ta có kính hiển vi, ta có thể nhìn thấy hàng tỷ tỷ sinh vật khác nữa. Tôi cũng nghe nói rằng chỉ ở trong ruột của chúng ta thôi cũng đã có hàng tỷ vi khuẩn sống trong đó. Theo Phật giáo, mỗi chúng sinh đều có cái tâm và đều muốn được hạnh phúc.
Tuy vậy, những chúng sinh mà ta có thể nhìn thấy được chỉ mới là cái chóp đỉnh của tảng băng. Giống như các nền văn hoá trên thế giới tin rằng có những chúng sinh ta không nhìn thấy được như thiên thần, chư thiên, ma, quỷ. Phật giáo cũng tin rằng có vô số loài chúng sinh ta không nhìn thấy được. Rất nhiều những chúng sinh này ở giữa chúng ta, ở ngay cái nơi mà ta đang ngồi và thở đây. Lý do duy nhất ta và họ không nhìn thấy nhau và không can thiệp vào cuộc sống của nhau là vì họ và ta không có một sự liên kết về nghiệp. Sự liên kết về nghiệp đó sẽ tạo ra sự nhận biết lẫn nhau.
Tuy vậy, trong số vô vàn chúng sinh ta có thể nhìn thấy và không thể nhìn thấy, con người sở hữu tiềm năng lớn nhất để đạt được giác ngộ vì chúng ta có khả năng trí tuệ, có động cơ và sức chịu đựng bền bỉ để tìm kiếm con đường tâm linh và gắn bó với con đường đó. Chúng ta thử lấy hai thí dụ để suy nghĩ: thú vật và chúng sinh trong địa ngục. Những chúng sinh này chịu đau đớn, sợ hãi, và ngu đần cho nên họ thiếu sức mạnh để hiểu được dù chỉ một chút về những phẩm chất của giác ngộ. Bây giờ ta thử xem những chúng sinh là các chư thiên trường thọ. Họ có vẻ như may mắn hơn chúng ta nhiều; họ có thân bằng ánh sáng xinh đẹp và hưởng được mọi điều sung sướng. Tuy vậy, sự thật là các chư thiên – không giống như con người vốn nếm trải hạnh phúc lẫn khổ đau và nhờ đó mà có được động lực và khả năng để tìm kiếm con đường đưa đến giác ngộ – quá mải mê say đắm trong những khoái lạc và thiếu kinh nghiệm khổ đau để có thể thúc đẩy họ đi theo con đường tu tập.
Tuy nhiên, trong xã hội loài người, nếu ta quan sát kỹ, chúng ta thấy rằng thật sự có rất ít người có khuynh hướng và có khả năng nắm lấy cơ hội để tu tập hòng đạt được giác ngộ. Ngày nay nhiều người không tin vào tâm linh. Nhiều người không có chút ý niệm mơ hồ gì về tiềm năng của tâm họ. Ngay cả những người học cao cũng vậy. Có lần một nhà trí thức nói với tôi: “Tâm chỉ là một thứ nấm mọc trên não bộ”.
Một số người quá bận lo chuyện áo cơm và bệnh tật hoặc là quá mắc kẹt vào những thú đam mê hoan lạc, không thể dành thì giờ để hướng đến sự phát triển tâm linh. Một số khác thì dốc toàn bộ sức lực của mình vào việc đạt được thành công vật chất và danh tiếng. Và một số người khác nữa có thể có chút khuynh hướng tâm linh nhưng không bao giờ chọn đi con đường đúng đắn vì họ kết thân với những loại người không tốt và chấp nhận những giá trị sai lầm. Thế cho nên chỉ có một số rất ít người có may mắn nắm bắt được những cơ hội để phát triển tâm linh.
Giáo lý nhà Phật trình bày rõ những điều kiện lý tưởng để có thể đạt được tiến bộ tâm linh. Những điều kiện đó được gọi là tám điều giải thoát (không vướng phải) và mười phước báu. Tám điều giải thoát là không bị sinh vào cảnh giới (1) địa ngục, (2) ngạ quỷ, (3) thú vật, (4) chư thiên trường thọ, vì không có cảnh giới nào trong những cảnh giới này có thể mang lại cho chúng sinh cơ hội để trưởng thành về tâm linh tốt như cảnh giới người có thể mang lại. (Mời đọc chương 6 “Tái sinh” để biết rõ hơn về các cảnh giới khác nhau). Ta cũng phải được thoát khỏi (5) quan điểm sai trái, (6) hành vi hung ác, (7) quan điểm theo hư vô chủ nghĩa, hoặc (8) sinh vào một nơi chốn không có sự xuất hiện của một vị thầy giác ngộ.
Mười phước báu bao gồm (1) được làm người, (2) có giác quan còn nguyên vẹn và (3) nghề nghiệp lành mạnh hay sinh kế đúng đắn. Chúng ta phải được sinh ra ở nơi mà (4) Phật pháp được giảng dạy, (5) có sự xuất hiện của một vị thầy giác ngộ, (6) vị thầy đó giảng dạy mật pháp (những lời dạy Phật pháp giác ngộ), và (7) việc thuyết pháp vẫn đang phát triển. Cuối cùng, chúng ta phải (8) tin vào việc giảng giáo lý, (9) làm theo giáo lý, và (10) có được sự hướng dẫn của một vị thầy đích thực còn sống.
Bạn có thể thấy rằng hiếm có người có được tất cả 18 điều kiện lý tưởng này. Người Phật tử gọi những người may mắn sở hữu những điều kiện lý tưởng đó là những người có cuộc sống quý báu. Cho dù chúng ta có được bao nhiêu trong số điều kiện lý tưởng này thì chúng ta cũng nên vui mừng với những điều kiện chúng ta có được, xem chúng như là phước báu và nên tận dụng chúng. Chúng ta cũng nên cố gắng trau dồi để đạt được những điều kiện chúng ta còn thiếu. Nếu chúng ta ý thức được những phước báu mà chúng ta có được, chúng ta sẽ không bao giờ dám phí phạm cơ hội quý giá này và sớm muộn gì chúng ta cũng sẽ nhận thức được ý nghĩa của cuộc sống quý báu – an bình, hỷ lạc và quảng đại thật sự.
Nếu chúng ta không nắm lấy cơ hội để mang lại ý nghĩa cho cuộc đời của mình và biến nó thành một cuộc đời quý báu, thì không chắc gì chúng ta có một cơ hội khác trong tương lai. Xét cho cùng, con người có trí năng sắc sảo nhất trong tất cả các loài chúng sinh, chúng ta cũng có những cảm xúc mạnh mẽ nhất. Chúng ta quá dễ bị lôi cuốn bởi những niềm đam mê và mắc phải những sai lầm bi thảm có thể khiến cho ta phải tái sinh vào những cảnh giới tồi tệ hơn. Vì Shantideva đã nói:
“Được làm người với những tự do và thuận lợi bẩm sinh.
Thật vô cùng khó.
Hôm nay chúng ta có cơ hội để thực hiện trọn vẹn mục đích của cuộc đời;
Nhưng nếu chúng ta không tận dụng cơ hội này,
Thì làm sao có được cơ hội như thế này lần nữa?” CUỘC ĐỜI LÀ VÔ THƯỜNG Cái chết có cách làm cho tâm chúng ta tập trung hơn bất cứ điều gì khác. Khi chúng ta suy tưởng về cái chết và vô thường của cuộc đời thì khó mà không cảm thấy phải khẩn trương tận dụng cuộc sống quý báu của chúng ta. Hiểu được nguyên lý vô thường khiến chúng ta nhận thức rõ về những đặc điểm thật sự của cuộc đời và khuyến khích ta sống tốt hơn không để uổng phí một phút giây nào cả.
Tất cả chúng ta đều biết giờ cuối cùng của mình sẽ đến, nhưng chúng ta không biết khi nào và như thế nào. Chúng ta chỉ mặc nhiên cho rằng cuộc sống của chúng ta sẽ dài lâu. Trên thực tế, chừng nào tâm đang còn ở trong thân xác thì ta còn sống. Rất nhiều thứ có thể dễ dàng tách rời sự kết hợp mong manh của thân và tâm. Không chỉ có bệnh hoạn và tai nạn gây ra cái chết cho ta, mà ngay cả thuốc men, thực phẩm, nhà ở, vui chơi giải trí và bạn bè cũng có thể là nguyên nhân làm ta chết.
Mặc dầu đời sống có vẻ như có một sự hiện hữu liên tục, nhưng nó là một chuỗi những sự kiện thay đổi bất thường trong từng giây từng phút. Những giai đoạn sinh rồi tử thay đổi luân phiên liên tục uyển chuyển như mặt và thân hình các vũ công xoay qua xoay lại. Những sự thay đổi trong cuộc đời xảy ra không dứt, hết sự thay đổi này đến sự thay đổi khác, từ phút giây này sang phút giây khác, giống như những hạt trong một tràng hạt khi ngón tay ta lần từ hạt này qua hạt khác.
Không phải chỉ có cuộc đời mới như thế mà mọi chuyện khác cũng đều như thế – thiên nhiên, tình bạn, của cải, địa vị – tất cả đều vô thường. Đức Phật đã nói:
Tam giới đều vô thường như những đám mây mùa thu
Sự quay vòng sinh tử của chúng sinh cũng giống như ta đang xem một điệu múa.
Đời người qua nhanh như ánh chớp trên bầu trời.
Cuộc đời trôi nhanh như dòng suối chảy xuống từ ngọn núi dốc đứng. Gungthang Tenpe Dronme kể một chuyện ngụ ngôn sâu sắc như thế này. Một người đang đi dạo chơi bất ngờ té xuống một dốc đá dựng đứng. Khi rơi xuống lưng chừng dốc đá, ông ta dừng lại được nhờ túm lấy một búi cỏ. Ông ta cố gắng hết sức đeo bám vào búi cỏ vì nếu không sẽ rơi khỏi sườn núi đá xuống mà chết. Nhưng ngay sau đó có con chuột trắng chạy đến và bắt đầu gặm mấy cọng cỏ. Rồi một con chuột đen chạy đến và gặm thêm một ít cỏ nữa. Hai con chuột thay phiên nhau gặm búi cỏ cho đến khi một con chuột gặm đứt cọng cỏ cuối cùng và người đàn ông đó rơi thẳng xuống và chết dưới khe núi.
Trong chuyện ngụ ngôn này, con chuột trắng tượng trưng cho ngày và con chuột đen tượng trưng cho đêm. Dần dần, mỗi ngày và mỗi đêm qua đi đưa chúng ta mỗi lúc một gần hơn chặng cuối cuộc đời. May thay chúng ta sống làm người được một thời gian, nhưng trong suốt thời gian đó chúng ta luôn đi về hướng cái chết. Đức Phật đã dạy:
Cái gì được tích lũy lại rồi cũng sẽ cạn kiệt
Cái gì khởi lên cuối cùng cũng rơi xuống.
Gặp gỡ rồi cuối cùng cũng chia lìa.
Sống rồi cũng chết.
Vì cuộc đời kết thúc bằng cái chết.
Mọi chúng sinh đều sẽ chết. Nhiều người biết rõ điều này, ít nhất là về mặt nhận thức. Chúng ta cũng biết rằng cái chết sẽ đến mà không hề báo trước. Tuy vậy chúng ta vẫn cảm thấy thoải mái vùi đầu vào trong cát, giả vờ như cuộc đời sẽ vẫn cứ mãi mãi như vậy. Vì thế mà chúng ta thiếu chuẩn bị cho cái chết. Khi giờ phút đó đến, ta sẽ lấy làm hối tiếc. Nhưng lúc đó thì đã trễ quá rồi.
Vì vậy chúng ta phải nhận thức được bản chất vô thường của cuộc đời và phải cảm nhận sâu sắc tính chất thường xuyên thay đổi của nó. Nhận thức này sẽ khiến chúng ta đi trên con đường an lạc để tiến đến mục đích an lạc mà không dám hoang phí chút thời gian nào nữa.
Sử dụng vô thường để xóa tan những cảm xúc tiêu cực
Hiểu được vô thường sâu sắc thì lợi ích ta có được nhiều vô kể. Suy ngẫm về vô thường, ngoài lợi ích của nó là thúc đẩy ta tu tập, nó còn có thể làm tan biến những cảm xúc tiêu cực và đưa ta đến một trình độ nhận thức cao hơn.
Vô thường của sân hận. Hiểu biết thật sự về vô thường làm cho ta khoan dung hơn. Giả sử như ta cảm thấy vô cùng tức giận một người nào đó đã làm hại ta. Nếu chúng ta thấy được bản chất vô thường của sự thù hận, ta sẽ ý thức được rằng người có vẻ là kẻ thù của ta hôm nay có thể đã từng là con ta trong tiền kiếp. Ngày mai, biết đâu họ lại có thể trở thành người bạn thân nhất của ta. Suy nghĩ đó sẽ làm ta nguôi ngoai cơn giận. Chúng ta cũng có thể cảm nhận được sự vô nghĩa và trống rỗng của việc xung đột với một người nào đó, vì chúng sinh thường xuyên thay đổi bộ mặt. Ta cũng có thể cảm thấy thương hại đối với người gọi là kẻ thù của ta, bởi vì qua một thời gian những cố gắng của họ để làm hại ta sẽ hại họ khi họ phải nhận lãnh hậu quả từ những hành động của họ.
Vô thường của sự ham muốn. Khi chúng ta dính mắc quá sâu với một ai đó hay một chuyện gì đó, ta phải suy nghĩ về tính vô thường của người và việc. Những người trẻ, đẹp sẽ trở thành già cả và xấu xí ngay trước mắt ta. Những gì mang lại cho ta sự thích thú hôm nay trở thành nguyên nhân buồn phiền khi chúng mất đi hay thay đổi. Sự giàu có vật chất và địa vị xã hội chỉ làm ta thành kẻ nô lệ của chúng mà thôi. Ôm ấp những thứ đó thì chẳng khác gì ta tự lấy hai tay siết cổ chính mình.
Chúng ta tự lừa dối mình nếu chúng ta chạy theo những thứ phù du của cuộc đời. Bằng cách suy nghĩ thật kỹ về sự vô thường của các đối tượng vốn hấp dẫn chúng ta, chúng ta sẽ nhận thức được bản chất nhất thời và bất thường của chúng, rồi ta sẽ mất dần sự thích thú những đối tượng đó. Khi sự ham muốn bớt dần đi, chúng ta có thể sẽ mang lại cảm giác an lạc thật sự cho chính mình, bất kể chúng ta là gì và sở hữu được gì. Sự thèm muốn làm cho tâm ta bám víu chặt hơn vào những đối tượng của tâm và nếu ta thoát khỏi được sự ham muốn thì đó là một nguồn hỷ lạc lớn lao nhất. Đức Phật đã dạy:
Tất cả dục lạc của thế gian và
Tất cả hỷ lạc của cảnh giới chư thiên
Không thể bằng được một phần mười sáu
của niềm vui thoát được sự ham muốn. Vô thường của sự buồn phiền. Khi cảm thấy chán nản, buồn phiền vì mất mát một cái gì đó rất thân thương, chúng ta nên suy nghĩ và cảm nhận sự vô thường của nỗi buồn đó và nguồn gốc của nó. Cảm nhận này có thể làm cho ta quên hết nỗi buồn bằng cách loại trừ nguyên nhân của nó. Nguyên nhân chính là do ta chấp thủ những gì không thật, không chắc chắn và xem chúng là thật và chắc chắn. Có lẽ chúng ta buồn vì phải đối phó với những thứ mà chúng ta không muốn. Cảm nhận về sự vô thường của những điều này sẽ hoá giải và làm tiêu tan áp lực của nỗi buồn.
Vô thường của những sự phấn khích. Suy nghĩ về vô thường cũng có thể giúp chúng ta tránh bị phấn khích thái quá. Chẳng hạn chúng ta được biết mình có được điều may mắn lớn. Thay vì để cho lòng tràn ngập với sự tự mãn, chúng ta hãy nên nhớ rằng sự may mắn đó chỉ là tạm thời. Những nghiên cứu được tiến hành trong vài thập niên vừa qua ở Hoa Kỳ theo dõi những người trúng xổ số đã cho ta thấy rất rõ. Kết quả nghiên cứu cho thấy là trúng xổ số nhiều triệu đô-la không làm cho những người trúng thưởng hạnh phúc hơn. Trên thực tế, việc trúng xổ số có thể mang lại cho họ nhiều đau khổ hơn vì chuyện mâu thuẫn trong gia đình, kiện tụng và tiêu xài hoang phí. Một nghiên cứu cho thấy “những triệu phú chớp nhoáng không hạnh phúc gì hơn những người vừa mới bị tai nạn”.
Khi chết, chúng ta không mang theo gì ngoài những thành tựu tâm linh đã đạt được và nghiệp của chúng ta, những thói quen mà chúng ta đã gieo trong dòng tâm thức của chúng ta khi còn sống. Dù chúng ta có được hưởng giàu sang, danh vọng, sắc đẹp, trường thọ và dục lạc hay chúng ta chịu nghèo khổ, tối tăm, xấu xí, yểu mạng và đau khổ thì cũng chẳng khác gì nhau. Tịnh Thiên (Shantideva) đã viết như thế này:
“Một người thức dậy sau những giấc mơ vui kéo dài cả trăm năm.
Một người khác thức dậy sau những giấc mơ vui kéo dài chỉ trong chốc lát.
Nhưng khi cả hai thức dậy, những trải nghiệm vui cũng qua rồi.
Vào lúc chết cũng giống như vậy thôi, dù bạn có trường thọ hay yểu mệnh cũng chẳng khác gì nhau”. Con đường đưa đến sự nhận thức cao hơn. Nếu chúng ta là những thiền giả có kinh nghiệm, việc quán chiếu vô thường có thể dẫn đến tình trạng tỉnh giác sâu sắc và đó là chân lý phổ quát, là giác tính. Milarepa kể lại những gì đã xảy ra với chính mình:
Sợ chết
Tôi chạy lên núi,
Quán tưởng những điều hoang mang nghi vấn về cái chết.
Tôi đạt đến trạng thái bất tử, vốn là bản chất bẩm sinh.
Bây giờ tôi không còn sợ chết gì cả. Nếu chúng ta thấu hiểu về lẽ tất nhiên của cái chết và bản chất vô thường của các đối tượng của tâm, thì tất cả những thói quen không tốt của tâm thức liên quan đến các đối tượng đó sẽ giảm thiểu. Tâm của chúng ta sẽ trở nên thoáng đạt hơn thay vì chấp thủ, thoải mái hơn thay vì căng thẳng, bình tĩnh thay vì âu lo, thanh thản và hài hòa thay vì mâu thuẫn và hỗn loạn, hiểu biết thay vì ngu si, trí tuệ thay vì hôn muội. Cả cuộc đời của ta, vốn nương theo những thói quen của các hành động quá khứ sẽ biến đổi từ một chu kỳ không tốt, không lành mạnh sang một chu kỳ tốt và lành mạnh. Đại sư Putowa khuyên chúng ta:
Chúng ta hãy suy nghĩ về sự không chắc chắn của thời điểm chết.
Một cảm nhận về sự tất yếu của cái chết sẽ khởi lên trong ta.
Lúc đó chúng ta sẽ tránh làm những điều bất thiện một cách dễ dàng
Và dốc lòng làm những điều thiện lành. Nếu chúng ta hiểu biết về vô thường và cảm nhận nó một cách sâu sắc, thì không có mục tiêu nào là quá cao xa đối với chúng ta. Tất cả những nỗ lực tâm linh của chúng ta sẽ rất mạnh mẽ và sẽ đưa ta đến mục tiêu tâm linh thật sự. Những cảm xúc tiêu cực sẽ không còn nữa. Tình yêu thương và trí tuệ của chúng ta, những phẩm tính thanh tịnh của bản chất thật sự của chúng ta sẽ tỏa sáng và soi sáng tất cả mọi thứ.
Vì vậy, chúng ta phải biết ơn vô thường! Nhờ có vô thường mà những nỗi khốn khổ của cuộc đời sẽ chấm dứt nếu chúng ta biết nỗ lực đúng đắn, và những phước lạc sẽ có cơ hội biến sự hiện hữu của chúng ta thành một đời người đáng quý.
CUỘC ĐỜI LÀ KẾT QUẢ CỦA NGHIỆP Hiểu được rằng chúng ta sẽ gặt hái những kết quả của những gì ta làm và suy nghĩ là một trong những sự thúc đẩy mạnh mẽ nhất khiến ta tu tập. Đây là nguyên lý nghiệp.
Nghiệp đã trở thành một quan niệm phổ biến ở phương Tây, nhưng nhiều người dường như nghĩ rằng nghiệp có liên quan đến số mệnh hay là một thứ trừng phạt mà họ phải chấp nhận. Đôi khi người ta gặp chuyện không may, họ thở dài và nói: “Ôi, đây chắc hẳn là cái nghiệp của mình”.
Đấy là một quan niệm sai lầm. Thứ nhất, nghiệp không phải chỉ là xấu. Nó liên quan đến tất cả những hành động cố ý, cả tích cực lẫn tiêu cực, đưa đến hạnh phúc cũng như khổ đau.
Thứ hai, nghiệp không phải là số mệnh. Nó không phải là sự trừng phạt do một tác nhân bên ngoài áp đặt lên chúng ta. Chúng ta tạo ra nghiệp của chính chúng ta. Nghiệp là kết quả của những sự lựa chọn của chúng ta trong mỗi phút giây của mỗi ngày. Như Walpola Rahula đã viết: “Lý thuyết nghiệp là lý thuyết nhân quả, của hành động và hiệu ứng của hành động; nó là quy luật tự nhiên, không liên quan gì đến khái niệm về công lý hoặc là thưởng phạt. Bất cứ một hành động nào xuất phát từ ý muốn của chúng ta cũng tạo ra những hiệu quả và những kết quả” . Nghiệp quả báo là kết quả của những gì chúng ta gieo cấy trong dòng tâm thức bằng những hành động và những phản ứng của chính chúng ta.
Quan niệm cho rằng chúng ta chỉ cần ngồi đó và chờ ảnh hưởng của những hành vi trong quá khứ của ta tác động đến chúng ta là trong quá khứ của chúng ta. Biết được mình đang chủ động chèo một quan niệm sai lầm. Bằng cách làm những điều tốt bây giờ – trong tư tưởng, ngôn từ hay hành động – chúng ta tạo những nghiệp tích cực và có thể xóa đi những nghiệp tiêu cực và biến đổi tương lai của mình. Mặt khác, nếu chúng ta cứ sa đà vào những hành vi bất thiện, chúng ta có thể làm tiêu tan hay giảm thiểu những hành vi tốt lái cuộc đời mình thì thật là hấp dẫn biết chừng nào!
Khi ta bước qua cửa tử, tất cả những gì ta đem theo là cái nghiệp của ta. Chúng ta bỏ lại tất cả những gì chúng ta hưởng thụ trong cuộc đời này. Như Đức Phật đã dạy:
Nếu đã đến thời điểm thì ngay cả vua cũng phải chết,
Của cải, bạn bè và người thân chẳng thể nào đi theo được.
Dù ta đi đâu, ở đâu
Nghiệp cũng sẽ theo ta như cái bóng. Nghiệp là điều duy nhất có tầm quan trọng trong việc quyết định tái sinh của chúng ta, vì kiếp sau của chúng ta không gì khác hơn là những kết quả của những khuynh hướng nghiệp của chúng ta vốn thể hiện trong nhận thức của chúng ta. Đức Phật dạy:
Do hành vi thiện lành, người ta được trải nghiệm hạnh phúc.
Do hành vi bất thiện, người ta trải nghiệm đau khổ.
Những trải nghiệm này là những nghiệp quả
Của hành vi thiện hay bất thiện của mỗi người. Nếu ta hiểu và tin ở nghiệp, ta sẽ muốn nắm lấy cơ hội của phút giây hiện tại để khiến nhiều đời sau của mình được tốt đẹp hơn. Bởi vì những ý định của chúng ta thúc đẩy những hành động và lời nói của chính mình, chúng ta sẽ muốn tác động vào những thái độ tinh thần của mình để bảo đảm rằng những thái độ đó là thái độ an lạc. Chúng ta sẽ muốn chặn đứng lại những ý nghĩ tiêu cực trước khi chúng đi quá xa. Vì nếu thật sự tin ở nghiệp, chúng ta sẽ không bao giờ dám mê mải vào những chuyện tiêu cực, vì chúng ta sẽ không muốn cố ý làm tổn thương chính mình. Nếu ta làm những hành động sai lầm, đó là bởi vì ta không hiểu biết và không tin ở những hậu quả do nghiệp gây ra.
Cải thiện nghiệp của chính mình cũng cho chúng ta cơ hội để khiến thế gian này tốt đẹp hơn. Chúng ta có thể suy nghĩ rằng nghiệp của ta chỉ liên quan đến ta mà thôi. Tuy nhiên, trên thực tế, có cả biệt nghiệp và cộng nghiệp. Biệt nghiệp chỉ liên quan đến cá nhân và những trải nghiệm riêng tư của chúng ta. Cộng nghiệp là nghiệp mà chúng ta chia sẻ với những người có quan hệ với chúng ta. Chúng ta càng gần gũi với người khác bao nhiêu thì càng chia sẻ nhiều nghiệp với họ bấy nhiêu. Cộng nghiệp là lý do giải thích tại sao nhiều người cùng có những trải nghiệm và những nhận thức tương tự nhau. Do vậy, chúng ta có thể nâng cao nghiệp chung của chúng ta bằng những hành vi mang tính tích cực. Về mặt này, chúng ta có thể giúp đỡ người khác nhiều hơn nếu chúng ta là những thiền giả có năng lực.
Do đó, hiểu biết một cách rõ ràng về những tác động của nghiệp là một điều rất đặc biệt, có lợi cho chúng ta và cho những người khác.
Nguồn gốc của nghiệp là chấp ngã
Nghiệp là hành động có tác ý khởi sinh từ tâm ý của ta. Do đó, tâm có vai trò quan trọng ở trong nghiệp và có năng lực tạo ra kết quả (Phạn:
phala, quả) hay là sự chín muồi (Phạn:
vipaka)
Nếu ta chưa thể nhận thức mọi việc với tâm giác ngộ thì nghiệp là một thực tế của cuộc sống. Chúng ta tạo ra nghiệp ngay phút giây chúng ta nhìn thấy những đối tượng của tâm như là những thực thể đang thật sự tồn tại. Nhận thức một đối tượng là một thực thể đang thật sự tồn tại bên ngoài tâm của ta tức là thấy nó bằng cái “ngã”. Như chúng ta trước đây đã có lần đề cập đến, cách nhận thức sự việc như vậy gọi là chấp “ngã”. Chúng ta chấp trước tiên cái “ngã” của thân và tâm ta như là “ta” và rồi chúng ta chấp vào cái “ngã” của những người khác và sự vật khác như là “cái này”, “cái kia”, “cái bàn”, “người bạn”, v.v...
Khi chúng ta bám vào các
uẩn, hay là các thành tố huyễn giả của nhân cách và xem chúng là “ta” thì chúng ta đã chấp vào cái “ngã của con người” (nhân ngã). Bám vào các đối tượng – thân xác, tình cảm, giác quan, và các hiện tượng – mà xem là thật thì chúng ta chấp vào cái “ngã của hiện tượng” (pháp ngã). Chấp ngã là nguyên nhân chính yếu tạo ra nghiệp.
Mọi sự trong cuộc sống đều do nghiệp mà ra và nghiệp được tạo ra do cách mà tâm ta nhận thức và tương tác với đối tượng của tâm – khái niệm, tình cảm, cảm giác và tất cả những hiện tượng xuất hiện trong tâm thức của chúng ta. Những đối tượng vật chất mà chúng ta nhận thức không nhất thiết là do biệt nghiệp của chúng ta tạo ra. Nhưng chính do nghiệp của chúng ta mà những đối tượng này trở thành một nguồn nghiệp quả trong cuộc sống của chúng ta như là hạnh phúc hay khổ đau chẳng hạn.
Nghiệp được hình thành như thế nào?
Nghiệp hình thành khi cái tâm lý chấp thủ của chúng ta làm nảy sinh sự tham ái (Phạn:
trishna, khát ái) đối với đối tượng bị ta bám víu vào. “
Tham ái” không chỉ có nghĩa là sự ham muốn hay bị thu hút bởi một đối tượng, mà còn có nghĩa ngược lại của nghĩa ham muốn – ghét hay ác cảm. Cả hai tình cảm thích và ghét siết chặt hơn nữa sự bám víu của tâm chúng ta và sự bám víu này, đến lượt nó, lại gây ra tham, sân, si – ba loại cảm xúc gây phiền não hay ba loại thuốc độc. Rồi chúng ta hình thành những nghiệp thông qua ba “cánh cửa” của chúng ta là thân, khẩu, ý. Chúng được ví với ba cánh cửa vì chúng ta biểu đạt tất cả những gì chúng ta làm thông qua hành động, ý nghĩ và ngôn từ. Sự tiến triển của các sự kiện này xuất phát từ nhận thức của tâm chúng ta là nguyên nhân của tất cả những điều bất thiện của chúng ta liên quan đến thân, tâm và xã hội. Như Gampola đã nói: “Nguồn gốc của tất cả những lầm lỗi và khổ đau là [chấp] ‘ngã’”. A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận có nói:
Ý là nghiệp của tâm
Hành động (thân) và lời nói (khẩu) là nghiệp do ý tạo ra. Mặc dù ta không thể tránh được việc tạo ra nghiệp nhưng ta có thể chọn lựa giữa hạnh phúc và khổ đau, bởi vì ta có thể chọn làm những hành vi tích cực hay tiêu cực rồi những hành vi này sẽ tạo ra nghiệp tốt hay nghiệp xấu. Kinh sách Phật giáo có liệt kê 10 hành vi thiện lành và 10 hành vi bất thiện, hay là nghiệp, mà chúng ta tạo ra với thân, khẩu và ý của chúng ta.
Ba điều bất thiện thuộc về thân là (1) sát sinh, (2) trộm cắp và (3) tà dâm. Bốn hành vi bất thiện thuộc về khẩu là (4) nói dối, (5) nói lời ly gián, (6) nói lời lỗ mãng và (7) nói lời vô nghĩa. Ba hành vi bất thiện thuộc về tâm là (8) tham lam, thèm khát, (9) có chủ ý hại người khác và (10) quan điểm sai lầm (tà kiến).
10 hành vi thiện lành liên quan đến việc từ bỏ 10 hành vi bất thiện. Chúng bao gồm những hành động thuộc về thân như (1) bảo vệ sinh mạng kẻ khác (2) làm từ thiện và (3) sống đạo đức; về hành vi lời nói như (4) nói lời chân thật, (5) nói lời hòa giải, (6) nói lời an ủi nhẹ nhàng và (7) làm vừa lòng người khác với những lời có ý nghĩa; và những hành vi thuộc về tâm như (8) khoan dung, rộng lượng, (9) có tâm từ ái và (10) có chính kiến.
Yếu tố quan trọng nhất trong việc xác định xem nghiệp chúng ta có phải là thiện lành hay không là động cơ hay chủ ý của chúng ta. Je Tsongkhapa đã nói: “Cũng giống như một thanh nam châm có thể tự nhiên khiến cho một miếng sắt di chuyển thì ý của ta cũng vậy, nó khiến cho tâm chúng ta bị lôi cuốn vào những ý nghĩ thiện, bất thiện hoặc là trung tính”.
Nếu những ý của chúng ta bị ảnh hưởng nặng nề của ba loại độc dược tham, sân, si thì bất kể chúng ta làm gì, nói gì hay nghĩ gì, chúng ta cũng tạo ra nghiệp bất thiện và sẽ gặt hái những hậu quả bất hạnh. Ngài Long Thọ (Nagarjuna) nói:
Những nghiệp tạo ra do tham, sân, si là nghiệp bất thiện...
Nghiệp bất thiện tạo ra tất cả những nỗi khốn khổ
Cùng với sự tái sinh vào những cảnh giới thấp kém. Ngược lại, nếu chúng ta được thúc đẩy bởi tâm từ ái, lòng khoan dung vô ngã và trí tuệ – tức là những thứ trái ngược với ba loại độc dược – thì bất kỳ chúng ta làm, nói hay nghĩ gì, chúng ta cũng tạo ra thiện nghiệp và chắc chắn chúng ta sẽ có được những kết quả tốt lành. Ngài Long Thọ có nói:
Nghiệp tạo ra không do tham, sân, si là thiện nghiệp…
Thiện nghiệp sẽ đưa đến tái sinh vào những cảnh giới hạnh phúc
Và tất cả hạnh phúc cho nhiều đời sống tiếp theo nữa. Nếu những ý của chúng ta là lẫn lộn cả thiện lẫn bất thiện thì nghiệp của chúng ta cũng lẫn lộn như vậy. Và nếu những ý của chúng ta là trung tính, chúng ta sẽ tạo ra những nghiệp trung tính và những nghiệp này mang lại những kết quả không phải hạnh phúc cũng chẳng phải đau khổ, và tạo nên những sự tái sinh vào các cảnh giới không cao sang mà cũng chẳng thấp hèn.
Một số người có thể lấy làm lạ không hiểu tại sao đôi khi ta lại thấy những người tốt chịu khổ đau và những người xấu lại được sung sướng. Câu trả lời là điều này tùy thuộc vào việc các nghiệp khác nhau sẽ chín muồi vào lúc nào. Mỗi chúng ta tạo ra vô số nghiệp trong vô số kiếp sống của chúng ta. Mỗi việc làm của chúng ta để lại một dấu ấn trong a lại da thức của tâm chúng ta. A lại da thức (Phạn:
alayavijnana; Tây Tạng:
kunzhi, kungzhi) là trạng thái trung tính, tĩnh lặng và vô thức của tâm. Nó làm nền tảng cho trải nghiệm luân hồi. Những nếp nghiệp đã ghi khắc vào trong a lại da thức của tâm chúng ta trở thành một động lực nhất định sẽ mang lại kết quả trong những đời sống tương lai của chúng ta. Những kết quả này – có thể là những trải nghiệm tích cực, tiêu cực hay trung tính – là sự chín muồi của những chủng tử nghiệp mà chúng ta đã gieo trong a lại da thức của chúng ta, trong quá trình tự nhiên của những hành động và hậu quả của chúng. Đức Phật dạy:
A lại da thức giống như đại dương, và
Những đặc tính của nghiệp giống như những con sóng. Do đó, con người bất thiện đang được sung sướng bây giờ là do họ đang hưởng kết quả của hành vi tốt của họ trong quá khứ và con người tốt đang chịu cực khổ là do người đó đang chịu kết quả của một hành vi tiêu cực của mình trong quá khứ. Nhưng khi những nghiệp này đã được trả xong thì những dấu ghi khắc của những nghiệp khác được tích lũy trong a lại da thức của tâm họ sẽ nổi bật lên.
Nghiệp sẽ chín theo thứ tự nào? Nguyên tắc tổng quát là những nghiệp nào mạnh mẽ nhất, nghiêm trọng nhất, dữ dội nhất sẽ chín muồi trước nhất. Tiếp theo là những nghiệp chúng ta tạo ra ở vào thời điểm quyết định khi chúng ta chết. Thứ ba là những nghiệp chúng ta trải qua thời gian dài nhất và quen thuộc nhất. Sau đó, nghiệp chúng ta trải qua sẽ theo thứ tự thời gian, bắt đầu với những nghiệp chúng ta tạo ra trước tiên. Vì vậy, chúng ta sẽ trải qua một số những nghiệp quả trong đời này, một số khác trong đời sau và một số khác nữa trong những đời sau nữa.
Mặc dù chúng ta có vô số nghiệp nhưng chúng ta không cảm thấy sự hiện diện của chúng bởi vì những nghiệp đó tiềm tàng và chưa đến lúc chín muồi. Nhưng một nghiệp nào đó đến thời điểm chín muồi, nó sẽ bắt đầu tác động và chúng ta sẽ chịu ảnh hưởng của nó trong đời sống của chúng ta. Kinh sách Phật giáo đưa ra sự so sánh tương tự như khi một người bị một loài chuột độc cắn. Nếu người đó bị cắn vào mùa đông thì chất độc chưa có tác dụng. Nhưng vào mùa xuân, khi người đó nghe tiếng sấm (vốn là một báo hiệu chuyển mùa), chất độc sẽ được kích hoạt, phát huy tác hại của nó. Do đó, nghiệp quả của chúng ta chắc chắn sẽ bắt đầu chín muồi khi thời điểm đến, nếu chúng ta không làm gì cả để giải nghiệp. Đức Phật dạy rằng:
Nghiệp do chúng sinh mang thân gây ra
Sẽ không bao giờ tiêu tan cho dù sau cả trăm niên kỷ.
Khi hoàn cảnh và thời gian đến,
Nghiệp quả chắc chắn sẽ chín muồi. Tuy nhiên, nếu chúng ta hóa giải và thanh tịnh những nghiệp tiêu cực, chúng ta có thể thay đổi, giảm thiểu hoặc thậm chí có thể xóa sạch những nghiệp đó. Một nghiệp tích cực rất mạnh mẽ có thể xóa đi nhiều nghiệp tiêu cực. Động cơ của chúng ta càng trong sạch và mãnh liệt thì nghiệp tích cực của chúng ta càng có uy lực. Chúng ta đừng bao giờ xem thường những kết quả mà những ý định trong sạch mang lại. Đức Phật dạy:
Một hành động xứng đáng cho dù nhỏ nhoi
Trong đời sau sẽ tạo ra niềm vui lớn.
Và thành tựu được những mục đích lớn
Như hạt giống mang lại một vụ mùa bội thu. Tuy vậy nói ngược lại cũng đúng. Một hành vi xấu xa có tác động mạnh có thể làm giảm thiểu hoặc xóa sạch nhiều hành vi tốt.
Mặc dù động cơ thúc đẩy các hành vi của chúng ta là yếu tố quan trọng bậc nhất nhưng tiềm lực của một nghiệp nào đó còn tùy thuộc nghiệp đó có hoàn thành hay không, nghĩa là nó có trải qua bốn giai đoạn sau đây không. Ta thử lấy hành động làm từ thiện để làm ví dụ. Trước hết, ta cần có một cái gì đó để đem cho. Cái đó gọi là
đối tượng (hay cơ sở) của nghiệp. Kế đó, chúng ta cần một động cơ vô cùng quan trọng. Thứ ba là hành động cụ thể đem cho, gọi là
thực hiện. Khi món quà đem cho có người nhận, đó là sự
hoàn thành. Bất kỳ hành động nào bao gồm bốn giai đoạn này là một nghiệp được hình thành trọn vẹn và nghiệp này sẽ mang lại nghiệp quả đầy đủ.
Chuỗi nghiệp duyên nhân quả này có ảnh hưởng bất tận và vô giới hạn. Một nghiệp đơn lẻ có thể tạo ra nhiều kết quả. Một kết quả đơn lẻ cũng có thể là sản phẩm của nhiều nguyên nhân và điều kiện nghiệp. Trong lúc trải nghiệm kết quả của một nghiệp, chúng ta có thể làm phát sinh ra nhiều nghiệp duyên nhân quả mới. Mỗi khía cạnh và mỗi phút giây của cuộc sống, chúng ta được tạo ra và được duy trì bởi một mạng lưới của
duyên khởi, có nghĩa là tất cả mọi sự hiện hữu đều kết nối với nhau, khởi sinh và vận hành tùy thuộc lẫn nhau.
Vượt khỏi nhân quả nghiệp báo
Ngay bây giờ, nghiệp là một thực tế của đời sống. Tuy nhiên, mục đích tối hậu của chúng ta là làm thế nào để vượt lên trên nghiệp. Ta làm được việc này khi ta thức tỉnh đạt đến trạng thái hoàn toàn giác ngộ và không còn chấp ngã nữa. Khi chúng ta tự mình thoát khỏi nghiệp duyên nhân quả, chúng ta trở thành tự tại để giúp đỡ vô vàn chúng sinh bằng vô số phuơng cách, bởi vì chúng ta có được sự toàn trí toàn thức để biết chính xác từng chúng sinh cần gì và chúng ta cũng có năng lực để xuất hiện trong bất cứ hình tướng nào và âm thanh nào để có thể giúp được chúng sinh cách tốt nhất.
Cách để vượt lên trên nghiệp là thông qua con đường tạo nghiệp tích cực. Tạo ra càng nhiều thiện nghiệp thì chúng ta gặt hái được càng nhiều an lạc. Và có càng nhiều an lạc thì chúng ta càng tạo ra được niềm an lạc lớn hơn nhiều. Điều này sẽ từ từ nới lỏng sự ràng buộc chặt chẽ của tâm thái chấp ngã của chúng ta. Cuối cùng chúng ta thoáng thấy được cái bản chất thật sự tỏa sáng của tâm chúng ta. Nếu hoàn thiện được nhận thức này thì chúng ta sẽ trừ hết được sự chấp ngã và trở nên hoàn toàn tỉnh giác. Theo phương cách này, con đường của thiện nghiệp dẫn ta đến, không phải là một trạng thái nào “ở bên ngoài kia”, mà trở lại ngay trạng thái an bình và hỷ lạc tột cùng vốn luôn hiện diện trong mỗi người chúng ta.
Có phải cuộc đời là một ảo tưởng?
Một số giáo lý nói rằng cuộc đời là một ảo tưởng; một số khác cho rằng cuộc đời do nghiệp tạo ra. Đối với các đạo sư đã chứng ngộ vốn không còn bị ảnh hưởng của luật nhân quả nữa, thế gian đối với họ chỉ là một ảo ảnh, không chắc chắn và không thật. Đối với họ, có gì đâu mà sân hận hay bám luyến vì mọi chuyện đối với họ chỉ là ảo tưởng.
Tuy nhiên, đối với hầu hết chúng ta, cuộc đời có vẻ như chắc chắn và có thật. Bao lâu chúng ta vẫn sống trong vòng nghiệp duyên nhân quả, chúng ta phải tuyệt đối theo quy luật chặt chẽ của nó. Các hiện tượng hình như vẫn tồn tại và tiếp tục bởi vì những khuynh hướng nghiệp của chính chúng ta. Nó giống như một giấc mơ: vì chúng ta đang ngủ nên chúng ta vẫn tin nó là thật.
Giáo lý nhà Phật dạy rằng thế gian là do tâm tạo ra. Nhưng chúng ta có thể thắc mắc rằng làm thế nào mà tâm chúng ta tạo ra được một ngọn núi vững chãi trước mặt chúng ta? Không có ai nói rằng tâm đã tạo ra ngọn núi. Chính cái khái niệm về ngọn núi là do tâm tạo ra. Nếu không có tâm thì – cho dù ngọn núi có ở đó hay không – cái ý tưởng, cái tên hay là ý nghĩ về sự hiện hữu hay không hiện hữu của ngọn núi sẽ không nảy sinh. Cho nên ý tưởng và tên gọi “núi” là sản phẩm của tâm. Đức Phật có nói trong kinh Karmashataka:
Nhiều nghiệp khác nhau
Đã tạo ra nhiều thế giới khác nhau Và trong kinh
Mahakarunapundarika, Đức Phật có nói:
Thế gian được tạo ra và được hiển lộ bởi nghiệp.
Chúng sinh do nghiệp tạo nên.
Chúng sinh do nghiệp sinh ra.
Chúng sinh được cá biệt hóa do nghiệp. Trong A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận:
Sự đa dạng của thế gian do nghiệp mà sinh ra. Một số người có thể tự hỏi: Nếu cuộc đời giống như một ảo tưởng thì cố gắng để cải thiện tình trạng của chúng ta phỏng có ích gì? Nói cho cùng, cuộc đời của chúng ta dựa trên những phản ứng của chúng ta và những phản ảnh của thói quen tinh thần của chúng ta mà những thứ này trên thực tế vốn không có thực tính. Tuy nhiên chúng ta phải cố gắng cải thiện cuộc đời như huyễn của chúng ta. Nếu không chúng ta vẫn cứ bị buồn khổ vì những sự kiện như huyễn. Bởi vì chúng ta không nhận thức được rằng chúng là như huyễn, nên chúng ta đau khổ như thể chúng là thật.
Tầm quan trọng của sự hiểu biết về nghiệp
Khi chúng ta thật sự hiểu biết về nghiệp, chúng ta sẽ không ham thích làm một hành vi không lành mạnh nào dù là một hành vi nhỏ nhặt nhất. Và thay vì ngồi chờ cho những điều bất tịnh chúng ta đang mang trong dòng chảy của tâm chúng ta đơm hoa kết trái và làm hỏng cuộc đời mình, chúng ta nên bắt đầu thanh tẩy chúng ngay từ bây giờ.
Trong tu viện của tôi ở Tây Tạng, trước lúc tôi vào tu ở đó, có một vị đại sư tên là Khenpo Damcho. Lúc còn bé, ngài không thể nào nhớ được bài học. Một hôm, thầy của ngài ngồi ngay trước mặt ngài và bảo ngài lặp lại một câu duy nhất theo thầy 100 lần, cứ như vậy thầy và trò thay nhau đọc câu ấy. Khi xong rồi, vị thầy bảo chú tiểu lặp lại câu đó một mình – nhưng cậu bé không thể nhớ lại được. Vì vậy, vị thầy bảo cậu bé đọc một bài chú ngắn của Đức Phật Tịnh Hóa 100 ngàn lần. Ngay khi cậu bé đọc xong, trí nhớ của cậu thay đổi hoàn toàn và từ đó cậu học hành rất giỏi. Cậu bé lớn lên, trở thành một trong những học giả xuất sắc nhất của thời đại ngài. Tại sao vậy? Việc đọc bài chú đó đã tạo ra những nghiệp tích cực và những nghiệp này làm tan biến những nghiệp tiêu cực vốn lâu nay đã làm tắc nghẽn trí nhớ của ngài.
Chúng ta cũng có thể thay đổi nghiệp của chúng ta nếu chúng ta nỗ lực đúng hướng. Bí quyết là chúng ta phải luyện cho tâm chúng ta đi từ nghiệp xấu đến nghiệp tốt rồi đến hoàn hảo, tức là đạt được sự giải thoát hoàn toàn khỏi mạng lưới nghiệp của ảo tưởng. Một khi chúng ta bắt đầu nếm được mùi vị thành công của những nỗ lực của mình, sự tin tưởng của chúng ta vào nghiệp và vào thiền định sẽ phát triển và sẽ được củng cố vững chắc trong cốt lõi của tâm chúng ta.
CUỘC ĐỜI ĐẦY RẪY KHỔ ĐAU Tất cả chúng ta đều khao khát hạnh phúc. Nhưng bao lâu chúng ta còn quá bận tâm với sinh tử luân hồi, với những hoạt động của thế gian trần tục này, thì chúng ta sẽ không bao giờ tìm thấy hạnh phúc vì thế gian này vốn đầy rẫy bất mãn và đau khổ. Thật sự hiểu được điều này là ta đã nhận được một cú hích hay một nguồn cảm hứng đưa ta đi đúng hướng, giống như quả tên lửa đang được phóng đi hướng đến mục tiêu của nó.
Đôi khi có người phê phán Phật giáo là bi quan vì cho rằng cuộc đời là đau khổ. Nhưng như Tiến sĩ Walpola Rahula, một học giả nổi tiếng thế giới, đã nói rõ: “Đạo Phật không bi quan mà cũng chẳng lạc quan. Chúng ta chỉ có thể nói rằng đạo Phật là duy thực. Đạo Phật nhìn mọi sự một cách khách quan”.
Khi chúng ta thật sự thấy được sự vô nghĩa của việc tìm kiếm hạnh phúc trong thế gian như huyễn này, chúng ta sẽ thôi tự trách mình vì đã không có được cuộc sống an bình đẹp đẽ hằng ao ước mà thay vào đó chúng ta sẽ đi theo con đường dẫn đến niết bàn, chấm dứt khổ đau. Đây là trí tuệ về con đường và mục tiêu.
Đương đầu với đau khổ của thế gian phàm tục là quan trọng vì một lý do khác nữa. Nếu muốn đạt đến mục tiêu, chúng ta cần phải bắt đầu từ nơi chúng ta đang đứng, chứ không phải từ nơi chúng ta tưởng tượng ta phải đang ở đó. Đó là lý do tại sao bài giảng đầu tiên của Đức Phật là “chân lý về đau khổ” (khổ đế), chân lý thứ nhất trong bốn chân lý cao quý (tứ diệu đế) nằm ở trọng tâm giáo lý của Ngài. Và đó cũng là lý do tại sao chúng ta cũng phải xem xét một cách khách quan cuộc đời của chúng ta. Nếu cuộc đời của chúng ta chìm đắm trong mê muội và đau khổ thì chúng ta nên thừa nhận điều đó và nên biết rằng đó là cái bệ phóng, là nơi ta khởi đầu con đường diệt khổ của chúng ta.
Đau khổ: Chân lý cao quý thứ nhất
Chúng ta hãy xem xét sâu xa hơn về bản chất của đau khổ mà chúng ta phải chịu đựng. Tất cả chúng ta đều không lạ gì với đau khổ mà chúng ta nhìn thấy chung quanh mình, chẳng hạn như sự chán nản, đau buồn, sầu khổ và bệnh tật. Trong đạo Phật, khổ đau mà mọi người đều nhận biết này gọi là “khổ khổ”.
Nếu chúng ta quan sát kỹ hơn, chúng ta sẽ thấy một loại khổ khác có tác động nhẹ lên tất cả niềm vui và sự toại nguyện của chúng ta: đó là nỗi lo sợ rằng tất cả những điều tốt đẹp rồi tất yếu sẽ chấm dứt hoặc thay đổi. Con cái chúng ta sẽ lớn lên và rời xa chúng ta; những người yêu dấu của chúng ta sẽ qua đời; chúng ta sẽ mất đi vẻ đẹp và sự cường tráng. Không chỉ mọi điều tốt đẹp rồi sẽ chấm dứt mà chúng còn có thể biến thành những điều ngược lại và trở thành những nguồn đau khổ: Những đầu tư tài chính của chúng ta có thể rốt cục làm cho bao tử ta bị loét; thuốc lá có thể làm chúng ta bị ung thư phổi. Điều này gọi là “khổ do thay đổi gây ra” (hoại khổ).
Ở một cấp độ sâu xa hơn nữa còn có “sự đau khổ tràn khắp” (hành khổ). Loại đau khổ này vốn có sẵn trong năm uẩn (năm thành phần của sự hiện sinh của con người: sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Trong năm uẩn đó, không có gì thật sự làm chúng ta toại ý cả. Như một câu nói nổi tiếng của Đức Phật: “Tất cả những gì được hợp thành (các pháp hữu vi) đều phải thay đổi và hoại diệt”. Pháp hữu vi là những pháp phát sinh từ những nguyên nhân và những điều kiện. Chúng được tạo ra bởi những nguyên nhân của khổ đau, những nghiệp không lành mạnh của những quan niệm nhị nguyên và những cảm xúc phiền não. Chúng bị điều kiện hóa và trở thành một phần của đau khổ.
Về một mặt nào đó, sự đau khổ tràn khắp này đã thấm vào khắp thế gian, đến độ chúng ta gần như không còn có thể nhận ra nó nữa. Một phần của lý do khiến ta không nhận biết rõ sự đau khổ này là vì chúng ta không hề biết đến một hình ảnh nào khác của đời sống và do đó chúng ta không có gì để so sánh với đời sống của chúng ta.
Vì vậy, chúng ta hãy xem xét tình cảnh của chúng ta theo quan điểm của chư thiên. Trong cuốn sách của tôi nhan đề là
Enlightened Journey (Hành trình giác ngộ), tôi có đưa ra một minh họa đơn giản: Hãy tưởng tượng chúng ta có một cái thân bằng ánh sáng như cầu vồng giống như thân của các chúng sinh trong cảnh giới của chư thiên. Đó là một cái thân ánh sáng phi vật chất có thể giúp ta bay qua không gian mỗi khi chúng ta di chuyển. Không có bóng tối chung quanh và không cần ánh sáng của mặt trời hay mặt trăng, vì cái ánh sáng thân của chính chúng ta chiếu sáng vùng chung quanh chúng ta. Không có sự đau đớn hay áp lực về mặt vật chất bởi vì thân của chúng ta là phi vật chất, không thể sờ thấy được và không thể bị hủy hoại được. Chúng ta được hưởng cái thân như vậy trong một thời gian rất dài. Rồi một ngày nọ, cái thân ánh sáng này bỗng nhiên biến đổi thành một cái thân bằng thịt, xương và máu được bao bọc trong một cái túi bằng da và chứa đầy những thứ bẩn thỉu. Chúng ta chỉ có thể di chuyển chậm chạp từng bước trên mặt đất với hai cây xương của đôi chân. Chúng ta không thể nhìn thấy gì nếu không có ánh sáng từ những nguồn sáng khác. Chúng ta có thể dễ dàng bị nghiến nát, đè bẹp, đâm xuyên thủng, vỡ ra làm nhiều mảnh, hoặc cắt thành nhiều khúc, không bao giờ lành và đi đứng trở lại được, nếu chúng ta không luôn luôn quan sát, né tránh và cân nhắc mọi chuyện một cách cẩn thận. Đây sẽ là một hình thức đau khổ không thể nào chịu đựng nổi.
Dĩ nhiên, sự sung sướng của chư thiên không thể so sánh được với niềm vui của giác ngộ tối hậu. Bởi vì chư thiên cũng tồn tại trong vòng sinh tử luân hồi, họ nhất thiết phải đau khổ. Khi nghiệp tốt của họ đã hết, họ sẽ chết trong nỗi sầu đau khủng khiếp, bởi vì họ cảm thấy được tương lai đầy khổ đau đang chờ đợi trong lần tái sinh sắp đến của họ vào một trong những cảnh giới thấp hơn.
Chúng ta phải nhớ đạo Phật dạy chúng ta rằng tất cả chúng sinh đều có Phật tính trong bản chất thật sự của mình. Giác tính đó là mục đích chúng ta phải đạt cho được bằng nhiều phương cách tu tập như thiền định chẳng hạn. Nhưng đối với phần lớn chúng ta, Phật tính bị che lấp bởi sự nhiễu loạn do nghiệp gây ra vốn bắt nguồn từ sự chấp ngã và bị những cảm xúc phiền não làm trầm trọng thêm. Kết quả là chúng ta đã rơi vào những cơn ác mộng hão huyền của hôn muội và khổ đau, và chúng ta phải chịu cảnh lang thang bất tận trong sáu cõi của sinh tử luân hồi, chẳng khác gì cái bàn xoay của người thợ gốm cứ mãi xoay vòng.
Đức Phật đã dạy:
Do ngu dốt, thèm khát và lưu chuyển
Trong thế giới của trời, người và ba cõi thấp ,
Trong năm cõi đó chúng sinh quay vòng ngu ngốc,
Chẳng khác gì bàn xoay của người thợ gốm quay tròn. Giống như con ong vo ve bay vòng quanh một căn phòng đóng kín, chúng ta sẽ cứ tiếp tục tái sinh trong nhiều cõi khác nhau tùy thuộc vào đặc điểm nổi trội của nghiệp mà ta thường tạo ra cho đến thời điểm đó.
1. Nếu tâm chúng ta đầy
sân hận và chúng ta làm hại kẻ khác thì khi ta chết, các nhận thức của ta sẽ nảy sinh ra dưới hình tướng của tái sinh
địa ngục. Những đặc điểm của cõi địa ngục – nóng như thiêu đốt và lạnh giá, đau đớn và buồn phiền, áp bức và thù hận – sẽ trở thành cuộc sống của chúng ta.
2. Nếu chúng ta
bủn xỉn, keo kiệt thì sau khi chết, chúng ta sẽ nhận thấy chúng ta được tái sinh trong cảnh nghèo nàn, khổ sở vì ngày lẫn đêm luôn đói, khát và cơ cực – những đặc điểm của cảnh giới quỷ đói (ngạ quỷ).
3. Nếu tâm và hành động của chúng ta bị
ngu si, đần độn ngấm vào, chúng ta sẽ nhận thức thấy mình được sinh ra làm súc vật và côn trùng. Chúng ta sẽ đau khổ vì đần độn, bị hành hạ, bị làm nô lệ, bị sát sinh – những trải nghiệm của cảnh giới
loài vật. 4. Nếu chúng ta bị ảnh hưởng nặng nề bởi sự
ganh tỵ, chúng ta sẽ nhận thức mình sinh vào thế giới của những linh hồn ham gây hấn với nhau, hay là
a-tu-la. Trong cảnh giới đó, vì sợ hãi và ganh tỵ, chúng ta sẽ không ngừng bị lôi kéo vào chuyện đánh nhau và mưu đồ.
5. Nếu sự
kiêu ngạo là đặc trưng của tư tưởng và hành vi của chúng ta thì lúc chết, nhận thức của chúng ta sẽ xuất hiện như nhận thức của
chư thiên ở cõi trời và ở đó chúng ta sẽ phung phí thời gian vào những trò tiêu khiển lạc thú cho đến lúc chúng ta chết và lao vào những cảnh giới thấp hơn.
6. Nếu đặc điểm của tâm và hành động của chúng ta là
lòng ham muốn và
bám luyến, chúng ta sẽ tái sinh làm
người. Mặc dù cõi người cho chúng ta cơ hội tốt nhất để đạt tiến bộ về tâm linh, thì khi được tái sinh làm người, chúng ta vẫn phải đương đầu với nguy cơ lớn là chúng ta có thể đổi hướng đi lạc đường và có thể rơi vào những cõi thấp kém hơn. Không thể nào nói trước được, biết đâu chúng ta có thể vì quá ghen tị và thù ghét mà làm một việc gì đó khủng khiếp để đáp trả lại những bầm dập của cuộc đời. Làm người cũng phải đấu tranh nhiều và không có gì bảo đảm rằng chúng ta sẽ còn đủ sức để tu tập.
Hãy nghĩ xem những cuộc đấu tranh chúng ta phải đương đầu từ khi sinh ra cho đến lúc chết. Trước hết, chúng ta phải trải qua giai đoạn sinh ra và tuổi thơ ấu. Rồi nếu may mắn, chúng ta sẽ trải qua khoảng 20 năm kế tiếp lo chuyện học hành. Sau đó, chúng ta trải qua thời xuân xanh xây dựng gia đình và dùng phần lớn thời gian của chúng ta làm việc để kiếm sống. Rồi nghỉ hưu và tuổi già đến lúc nào không hay. Chẳng bao lâu, chúng ta sẽ thấy khó khăn trong việc đi lại, ngủ nghỉ và sinh hoạt hằng ngày. Đủ mọi thứ bệnh tật sẽ khiến chúng ta ngày lẫn đêm lo âu, đau đớn và thèm khát. Chúng ta có thể làm tiêu tán hết những gì chúng ta kiếm được và dành dụm được thời còn trẻ.
Cuối cùng cái chết sẽ chờ trước cửa và cuộc sống sẽ chấm dứt. Thân xác chúng ta sẽ vĩnh viễn biến mất khỏi trái đất này khi những thành phần của nó hoà vào những thành phần của trái đất. Sau rốt ngay cả tên của chúng ta cũng không còn ai trên thế gian này nhớ đến nữa. Chỉ có tâm thức của chúng ta di chuyển – và chúng ta đi quẩn quanh trong những cảnh giới trừ phi chúng ta đạt được giải thoát và được tái sinh vào một cõi tịnh độ, ở đó chúng ta sẽ không bao giờ có thể bị thối thất về mặt tâm linh và một ngày nào đó sẽ đạt được giải thoát.
Trên tất cả những cuộc đấu tranh đó, con người còn phải chịu đựng bốn tình trạng khó khăn trong suốt cuộc đời mình: nỗi sợ hãi phải chấp nhận những gì chúng ta không muốn và phải mất đi những gì ta yêu thích, và sự khốn khổ vì không có được những gì chúng ta muốn và phải gặp những gì chúng ta ghét.
Giải pháp đúng đắn duy nhất là chúng ta hãy tự mình thoát khỏi sự khốn khổ này bằng cách trải qua ba giai đoạn sau đây:
- Nhận ra được những thái độ, tình cảm và hành vi tiêu cực của chúng ta.
- Chuyển từ tiêu cực sang tích cực.
- Biến đổi từ tích cực sang toàn hảo.
Tham vọng có thể là một phẩm chất tuyệt vời. Người phương Tây nói riêng, may mắn được phú cho tính cách hiệu quả và nhiệt tình gọi là tính cách “
can do” (có thể làm được) rất lạ lùng. Chúng ta phải khai thác tính cách đó một cách khôn ngoan có lợi cho chúng ta. Nếu chúng ta đang chạy đua marathon và chúng ta quá nôn nóng muốn về đích ngay nên nhảy thẳng đến mức đến mà không bắt đầu từ vạch xuất phát hoặc không chạy hết đoạn đường, chúng ta sẽ không đoạt giải được. Vì vậy, trong lúc chúng ta luôn nhắm đến mục đích tối hậu là Phật quả, chúng ta phải khởi đầu bằng những việc đầu tiên: biết mình đang ở đâu.
Chúng ta phải nhận chân được rằng cuộc đời của chúng ta chủ yếu là tiêu cực và đau khổ. Vậy chúng ta nên làm nảy sinh sự thôi thúc tự giải thoát mình khỏi ngục tù của những điều do chính chúng ta tạo ra. Chúng ta cần phải chuyển từ tiêu cực sang tích cực bằng cách rèn luyện theo con đường của sự an bình, hỷ lạc, tình yêu thương và quan điểm tích cực. Cuối cùng, chúng ta phải đạt đến sự toàn hảo và tự giải thoát khỏi sự lệ thuộc của chúng ta vào sự sợ hãi, khổ đau và khao khát hạnh phúc, bằng cách đánh thức giác tính của tâm chúng ta.
Đạo Phật mang lại cho ta một phương cách để tự giải phóng khỏi căn nguyên của đau khổ bằng sự rèn luỵện từng bước một và sự rèn luyện này sẽ đưa ta thẳng tới mức đến, trạng thái hoàn toàn giác ngộ. Do đó đạo Phật chủ trương một sự cởi mở, một quan điểm cách mạng tránh được sự cực đoan của bi quan hoặc lạc quan. Ngài Long Thọ nói:
Ai có thể đạt được Không tính
Thì người ấy có thể đạt được tất cả. TIỀM NĂNG VĨ ĐẠI CỦA CUỘC SỐNG Nhiều người có sẵn bản tính hiền hòa, vui vẻ và thông tuệ. Sự hiện diện của họ không thôi cũng có thể mang lại an bình và hạnh phúc cho những người chung quanh họ. Giá như chúng ta có thể phát triển được khả năng này và nỗ lực tinh tấn thì không một ai trong chúng ta lại không thể đánh thức được những phẩm chất như vậy từ con tim mình. Ai trong chúng ta cũng có giác tính. Những phẩm chất thật sự của chúng ta là an bình, hỷ lạc và thông tuệ. Những cảm xúc tiêu cực và những biểu lộ không lành mạnh của chúng ta chỉ là những phiền não – một thứ ô nhiễm – không phải bản chất thật sự của chúng ta.
Đó là lý do tại sao đạo Phật dạy chúng ta rằng cuộc đời quý giá vô cùng, rằng chúng ta có thể sử dụng vô thường để cải thiện cuộc đời, rằng chúng ta có thể dùng nghiệp luật để chắc chắn có được một cái chết thanh thản và tái sinh vui vẻ, và rằng tất cả chúng ta có thể hoàn toàn giác ngộ, bởi vì đây chỉ là sự thể hiện bản chất vốn có sẵn trong ta. Chúng ta có thể đạt được an lạc và giác ngộ không phải chỉ cho đời này mà còn cho nhiều đời sau nữa, không phải chỉ cho chính chúng ta mà còn cho vô số những người khác nữa.
Sự chọn lựa là do chúng ta. Nếu chúng ta nuôi dưỡng ý thức về an lạc, có nhận thức tích cực, và tăng cường những thói quen tốt này trong tâm thức chúng ta thì ý thức này sẽ làm biến đổi cuộc đời ta và tâm tính ta. Những tình huống khổ đau sẽ ít có tác dụng đối với chúng ta và sức mạnh của an lạc sẽ thắng thế. Nhưng nếu chúng ta không sử dụng cuộc đời ngay từ bây giờ thì trong tương lai, biết đâu chúng ta có thể rơi vào trạng thái ngu muội, sợ hãi và đau khổ.
Để đạt được mục đích này, chúng ta phải đi theo con đường tâm linh. Nó có thể là bất kỳ một con đường nào tạo ra an lạc, nới lỏng sự kìm kẹp của tâm chấp thủ của chúng ta, gột sạch phiền não, làm cho lời nói và hành động của chúng ta tinh tế hơn. Đây là con đường duy nhất để chuyển đổi những thói quen tiêu cực của chúng ta thành những nghiệp tốt đẹp và thể hiện được trí tuệ của chúng ta.
Con đường của chúng ta có thể bao gồm một hoặc tất cả những việc thực hành sau đây:
- Thiền định theo dõi hơi thở và ý thức về hơi thở của mình trong từng phút giây nhằm đem lại sự yên tĩnh cho tâm hồn và đánh thức trí tuệ quán chiếu.
- Nuôi dưỡng những tư tưởng, tình cảm của lòng yêu thương, từ bi đối với người khác và thực hành tâm từ bi bằng cách phục vụ cho nhu cầu của người khác mà không có ý nghĩ vị kỷ nào cả.
- Hết lòng sùng kính một vị linh thiêng luôn luôn giúp mở rộng tâm ý của chúng ta, phá trừ mọi phiền não tâm và mọi hạn chế cảm xúc của chúng ta.
- Nhận thức sáng suốt trong việc nhìn thấy và biến đổi tất cả những đối tượng của tâm thành những nguồn lợi ích tích cực.
- Quán chiếu bằng tâm thoáng đạt đối với sự tỉnh giác về cái nhất thể của chủ quan và khách quan.
- Cố gắng thấy và cảm nhận rằng những gì đang xảy ra trong cuộc đời là như huyễn (không có thật), giống như một giấc mơ được tạo ra và củng cố bởi những khuynh hướng của tâm chúng ta.
Điều cuối cùng trên đây là một trong những nét đặc trưng của truyền thống Tây Tạng, được sử dụng trong yoga giấc mộng và trong những phương pháp thiền định khác. Rèn luyện cho tâm thấy cuộc đời như là một giấc mộng giúp nới lỏng sự chi phối của sự bám luyến và thèm khát cuộc sống này. Rồi khi những kinh nghiệm của cái chết và sau cái chết đến với chúng ta, ta sẽ xem chúng là không có thực, giống như những giấc mộng, và sẽ có thể xử lý chúng dễ dàng hơn nhiều.
Người đang ngủ đôi khi tự nhiên biết được rằng mình đang nằm mơ và những gì đang xảy ra chỉ là một giấc mơ. Có những cách giúp chúng ta tự rèn luyện để có được sự thấy biết như vậy, một phương pháp gọi là mơ tỉnh táo. Chúng ta có thể tập “đánh thức” những cơn ác mộng và nhận ra được chúng là những giấc mơ, và nhờ đó làm cho nỗi sợ hãi hay sự đe doạ trở thành vô hiệu và biến đổi nó thành một điều gì đó tích cực. Tương tự như vậy, sau khi chết, khi chúng ta ở trong giai đoạn thân trung ấm, nếu chúng ta có thể nhận ra rằng những trải nghiệm của chúng ta trong thân trung ấm là ảo tưởng thì tất cả những trải nghiệm khủng khiếp sẽ trở nên vô hiệu và còn có thể biến đổi thành những gì có hiệu quả tích cực.
Người ta nói rằng, nếu chúng ta tập được yoga giấc mộng, sẽ có thể nhận biết được các trạng thái sau khi chết (trạng thái của bản chất tối hậu và thân trung ấm, hay là giai đoạn chuyển tiếp) như chúng vốn là – không thật và là ảo tưởng. Người ta cũng nói rằng nếu bảy lần chúng ta nhận ra những giấc mộng của chúng ta chỉ là những giấc mộng, thì chúng ta sẽ có thể nhận ra được thân trung ấm. Thực ra, có người còn nói rằng những trải nghiệm trong thân trung ấm còn dễ thay đổi hơn là những trải nghiệm trong giấc mộng.
Theo Tsele, những ý tưởng của chúng ta là điều quan trọng nhất khi chúng ta rèn luyện để đối phó với những giấc mơ và trung ấm. Chúng ta phải hình thành một thói quen nhắc nhở chính mình rằng mọi điều chúng ta làm hay nhìn thấy đều là một giấc mơ hoặc là trung ấm, một giai đoạn trung gian. Nếu ta suy ngẫm sâu sắc chân lý này, chắc chắn ta sẽ thành công trong việc đối phó với trung ấm sau khi chết.
Để có thể thành công trong việc rèn luyện chuẩn bị cho cái chết và sau khi chết, Phật giáo Đại thừa (một trong những trường phái lớn của Phật giáo) khuyên chúng ta trước tiên phải tìm được một vị thầy đáng tin cậy và thông thái. Sau đó, chúng ta phải học tập những lời dạy của các vị thầy đó. Chúng ta phải phân tích thấu đáo những điều ta học và tăng cường kinh nghiệm của mình về sự thông tuệ của những lời dạy đó bằng thiền định. Chúng ta phải mở trí tuệ và con tim của mình ra với tất cả chúng sinh, thương yêu chúng sinh giống như thương yêu người mẹ đã sinh ra chúng ta, quên mình chăm sóc chúng ta khi chúng ta còn nhỏ dại. Chúng ta phải gặp gỡ tất cả chúng sinh với thái độ từ bi, hỷ xả. Chúng ta phải rèn luyện về sáu ba la mật (paramita): bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ để nhận ra chân lý thật sự. Ngài Jigme Lingpa mong mỏi như thế này:
Trong đời sống này, tôi mong có được một cuộc sống tâm linh,
Làm hài lòng những vị thầy tâm linh,
Tin tưởng vào sự thông tuệ của việc học hành, phân tích và thiền định, và
Rèn luyện việc từ bỏ, thái độ giác ngộ và sáu ba la mật. Những giáo lý Đại Viên Mãn (hay Đại Toàn Hảo) dạy chúng ta rằng chuyện quan trọng là biết được phải làm gì sau khi chết, khi mà chúng ta gặp phải “cái bản chất tỏa sáng” và những “ảo cảnh tỏa sáng hiện diện tự nhiên” xuất hiện trong giai đoạn của bản chất tối hậu. Để biết được phải làm gì, chúng ta phải thiền định tích cực trong chính cuộc đời này. Trước hết, chúng ta phải hiểu bản chất thật sự của tâm và phải duy trì, tăng cường sự hiểu biết đó bằng cách quán chiếu nó. Sau khi thấy rõ bản chất thật sự của mình, chúng ta sẽ nhận thức mọi chuyện xuất hiện trước mắt – tất cả những gì phát sinh trong ý thức của chúng ta, khi còn sống cũng như khi đã chết – là sự hiện diện và biểu lộ của chính bản chất thật sự đó. Vì vậy, Longchen Rabjam đã khuyên:
Trong khi ta sống, vào giây phút hiện tại này của cuộc đời,
Chúng ta phải chắc chắn hiểu rõ được trí tuệ của tính giác của chính mình như là pháp thân.
Rồi duy trì năng lực thiền định tự nhiên trong trạng thái tự sáng tỏ.
Rồi tất cả các hiện tượng sẽ khởi lên như là năng lượng của trí tuệ hiện diện tự nhiên. Chúng ta có được cơ hội tuyệt vời trong cuộc đời này để nhận ra thực tính của chúng ta, tức quả vị Phật, nếu chúng ta đi theo con đường tâm linh đúng đắn và đạt được những thành tựu cao.
Chúng ta cũng có một cơ hội tuyệt vời để chuyển ý thức của chúng ta đến một cõi tịnh độ nếu chúng ta có sự sùng bái chư Phật và những cõi tịnh độ chẳng hạn như Đức Phật Vô Lượng Quang và cõi Tịnh độ Cực lạc. Nếu chúng ta luyện thiền Phowa, - chuyển thần thức , chúng ta có thể tái sinh trực tiếp vào cõi Tịnh độ, và nhờ vậy không cần phải đi qua các giai đoạn khác nhau của quá trình chết. Một thiền giả khác cũng có thể thực hiện Phowa cho chúng ta trong lúc đang còn sống, sắp chết hay trong giai đoạn trung ấm, giai đoạn chuyển tiếp.
Nếu chúng ta không đạt được thành tựu tâm linh nào cao, thì cho dù chúng ta có tích lũy được nhiều công đức, chúng ta vẫn sẽ phải chịu đựng những trải nghiệm của quá trình chết – và đây là chủ đề của chương tiếp theo.