CHƯƠNG 5. NHỮNG CHUYỆN KỂ VỀ GIAI ĐOẠN TRUNG ẤM
Những trải nghiệm sau khi chết của những delog Tây Tạng
Vì phần lớn những tài liệu của các delog đều có liên quan đến giai đoạn trung ấm nên tôi dành riêng cả chương này cho những thí dụ về những chuyện kể này . Mục đích của chương này là để minh họa những hậu quả không thể tránh được của nghiệp mà bất cứ ai cũng sẽ phải đối mặt. Tôi hy vọng chương này sẽ thuyết phục người ta hành xử đúng đắn và cải thiện tương lai của mình.
Nhiều người thường thắc mắc không hiểu tại sao các delog chỉ nói đến những lời cầu nguyện và thiền định theo Phật giáo, về các chư thiên và các vị thầy Phật giáo. Về một phương diện nào đó, tôi không nghĩ rằng những đặc điểm về Phật giáo trong những tài liệu của các delog có ảnh hưởng gì quan trọng lắm.
Theo thiển ý của tôi, những tư tưởng, tình cảm về an bình, hỷ lạc và việc diễn đạt những tư tưởng và tình cảm đó bằng lời, hay bằng những hành động, trở thành những nguồn lợi lạc và giải thoát, cho dù chúng được diễn đạt thông qua Phật giáo hay một hệ thống tín ngưỡng nào khác. Bất cứ ai đã đạt được sự thông tuệ về an bình và hỷ lạc tối hậu đều có được năng lực giải thoát những người khác, cho dù họ có mang hình tướng chư thiên Phật giáo hay không. Tuy nhiên, những delog Tây Tạng đã nghe, thấy chư thiên và giáo lý Phật giáo vì chính họ là Phật tử và những thói quen tinh thần và những quan hệ nghiệp duyên của họ đều có liên quan đến chư thiên và giáo lý Phật giáo. Như chúng ta đã từng đề cập đến trước đây, Phật tử tin rằng tất cả những hiện tướng xuất hiện trước mặt chúng ta và tất cả những trải nghiệm mà chúng ta kinh qua chỉ là những phản ánh của những thói quen của tâm chúng ta mà thôi. Vậy thì chúng ta có theo hệ thống tín ngưỡng gì đi nữa, nếu tín ngưỡng đó có sự thông tuệ về sự an lạc tối hậu, thì tín ngưỡng đó cũng sẽ là một nguồn lợi lạc thực sự trong cuộc sống và trong cái chết. Chúng ta sẽ xem và cảm thấy tín ngưỡng đó như là một nguồn giải thoát. Danh xưng và hình tướng không phải là vấn đề thực sự, vì chúng chỉ là những phương tiện thiện xảo hoặc là một phương cách để đạt đến mục đích. Chính chất lượng mới quan trọng.
Khi đọc những câu chuyện này, các bạn hãy nhớ lại rằng những chứng nhân khác nhau trải nghiệm những hình ảnh, âm thanh và những hoạt động khác nhau trong thân trung ấm, bởi vì những âm thanh và hình ảnh này là những ảo giác và là những phản ảnh của chính tâm họ. Chẳng hạn, một người có thể thấy Pháp Vương trong hình tướng phẫn nộ, trong lúc đó một người khác có thể nhìn thấy Ngài trong hình tướng thanh thản. Một số người có thể nhìn thấy Thần Mặt Khỉ đang ghi chép, trong lúc một số người khác nhìn thấy vị ấy đang đọc chiếc gương soi trong đó hành vi của mọi người được phản chiếu lại. Mặc dù có những khác biệt cá nhân này, nhưng chúng ta cũng nên chú ý là có rất nhiều điểm tương đồng trong những câu chuyện kể này.
HÃY ĐỂ BÀ ẤY NHỚ LẠI MỌI ĐIỀU ĐÃ NHÌN THẤY:
TRẢI NGHIỆM CỦA LINGZA CHOKYI
Mỗi câu chuyện kể của mỗi delog đều chứa đựng một sự hiểu biết và nhân vật khác nhau. Câu chuyện của Lingza Chokyi có thể gần hơn với những trải nghiệm mà phần lớn những người bình thường có thể có trong lúc chết và sau đó.
Chokyi thấy mình đang đứng nhìn cái giường của mình, trên đó bà thấy xác chết của một con rắn khổng lồ nằm quấn trong áo quần của bà, sặc mùi hôi thối khủng khiếp. Xác rắn đang thối rữa chính là thân xác của bà, nhưng bà không thể nhận ra. Thường thì người chết không nhìn thấy xác của chính mình, nếu có nhìn thấy thì cũng không nhìn thấy đúng như hình dáng thật của nó.
Khi những người con của Chokyi bắt đầu khóc lóc rồi ôm và hôn con rắn, toàn bộ nhận thức của Choki bỗng nhiên biến đổi. Bà bắt đầu nghe những âm thanh rất lớn giống như những tràng sấm sét vang lên cùng một lúc. Bà nhìn thấy những cơn mưa đá bằng máu và những cục mủ lớn bằng những quả trứng bắt đầu đập mạnh vào người bà. Bà không thể nào chịu đựng nổi! Nhưng ngay khi con các bà thôi khóc, tiếng sấm sét và tiếng ầm ầm của mưa đá tức khắc ngưng lại. Toàn bộ không gian trở nên thanh bình, và tất cả những sự đau đớn và sợ hãi của bà đều lắng xuống. Nhận thức của bà trở lại bình thường một thời gian.
Những Phật tử Tây Tạng thường tin rằng thương tiếc và khóc than người chết làm tổn thương họ. Đó là một trong những lý do khiến cho Milarepa có những nguyện vọng như thế này:
Không có ai hỏi thăm ta khi ta bệnh.
Không ai khóc ta khi ta chết.
Nếu ta có thể chết trong sự cô độc như vậy
Thì nguyện ước của kẻ đạo nhân này được thỏa mãn.
Không có dấu chân [người thân] nơi cửa [hang].
Không có vết máu ở bên trong [do đánh nhau tranh gia tài]
Nếu ta có thể chết trong cô độc như vậy
Thì nguyện ước của kẻ đạo nhân này được thỏa mãn.
Chokyi nghe anh trai mình nói với gia đình: “Bây giờ có khóc cũng chẳng ích lợi gì. Chúng ta nên lo sắp xếp tổ chức tang lễ. Chúng ta phải mời một vị lạt-ma đến để thực hiện Phowa, (chuyển ý thức). Chúng ta phải mời Ngài Thugje Rinpoche và 20 hoặc 30 vị sư để thực hiện lễ cúng cho người chết”. (Lễ cúng cho người chết có thể kéo dài nhiều tuần hay suốt 49 ngày, tùy theo khả năng tài chính của gia đình). “Chúng ta cũng phải thỉnh vị Gomchen (một vị lạt-ma “Đại Thiền giả”) để chủ trì tang lễ vì Chokyi có lòng tin nơi vị này”.
Chokyi có thể nhìn thấy và nghe gia đình chuẩn bị tang lễ cho mình, nhưng không hiểu sao bà lại tin rằng họ đang chuẩn bị lễ cho một mục đích nào khác.
Khi vị lạt-ma bắt đầu tụng Vajracchedika Sutra (kinh Kim Cương), chỉ nghe tụng kinh thôi, Chokyi bắt đầu cảm thấy vui vẻ. Vào buổi chiều, vị Gomchen và khoảng 20 vị sư đến. Bà đảnh lễ vị Gomchen và các vị khác, và tiến đến gần để nhận phước lành của các Ngài. Khi không thấy các vị này có phản ứng gì cả, bà nghĩ rằng họ giận bà và bà liền hỏi họ: “Nếu các ngài giận thì tại sao các ngài lại cất công đến đây?”. Không ai trả lời một tiếng nào cả. Chokyi không thể hiểu được tại sao họ không nhìn thấy bà.
Chokyi nhìn thấy vị Gomchen đặt bàn tay ông ta trên đầu “con rắn” và nói: “Này Chokyi, con đã chết rồi. Con đừng bám luyến vào con cái, của cải hay thực phẩm. Con hãy hòa nhập tâm thức của con vào với tâm thức của ta. Rồi chúng ta sẽ cùng nhau đi đến cõi Tịnh độ Cực lạc của Đức Phật Vô Lượng Quang. Chúng ta nhất định sẽ đến đó!”.
Chokyi suy nghĩ: “Mình chưa chết. Mình đang còn có thân của mình”. Cùng lúc đó, bà mong muốn đi và hòa nhập cùng vị lạt-ma như ông ấy đã bảo bà. Nhưng vì sợ con rắn nên bà bước lùi lại.
Vào lúc đó, bà nghe vị Gomchen la to lên PHAT! Bà cảm thấy vui vẻ và hạnh phúc. Rồi vị Gomchen bảo với gia dình: “Việc thực hiện Phowa đã trễ rồi. Tâm thức của Chokyi đã rời khỏi thân bà ấy rồi”.
Sau đó, bữa ăn tối được dọn ra cho mọi người, nhưng không ai cho Chokyi chút thức ăn nào cả. Vị Gomchen bảo cô con gái của Chokyi: “Con hãy đem cho mẹ con phần thức ăn của bà ấy đi”. Vì vậy, cô con gái của bà làm một đĩa thức ăn nhỏ có một miếng thịt trên đó và đem thêm một tách trà. Cô con gái đặt đĩa thức ăn gần con rắn và nói: “Mẹ ơi, mẹ hãy ăn đi”. Mặc dù bà đói và khát nhưng không thể ăn uống gì được vì thấy con rắn kinh tởm quá. Chokyi mất hết sự thương mến đối với con gái mình vì nó đã để thức ăn gần con rắn.
Sau bữa ăn tối, vị Gomchen vừa lẩm bẩm cầu nguyện vừa đem đốt phần thức ăn của bà trên ngọn lửa như là sur, một kiểu cúng dường thực phẩm đang cháy. Chỉ đến lúc đó, Chokyi mới cảm thấy thỏa mãn như thể bà đã ăn uống xong. Sur là một lễ cúng theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng để dâng cúng thức ăn, nước uống và của cải cho những người chết hoặc những sinh linh khác. Những thực phẩm sur được ban phước bằng những lời cầu nguyện và thiền định và rồi được đem cúng cho một hay nhiều chúng sinh cụ thể nào đó. Thực phẩm được đốt lên để tạo ra mùi vì các sinh linh và chúng sinh trong trung ấm dễ dàng thọ hưởng được mùi thức ăn. Với việc cúng lễ này, Chokyi không còn cảm thấy đói khát nữa.
Ngay khi những vị lạt-ma sắp xếp xong bàn thờ, họ bắt đầu thực hiện một nghi lễ cúng người chết rất tỉ mỉ. Vị Gomchen vẫn thiền định. Chokyi vẫn cảm thấy buồn vì bà nghĩ rằng mọi người giận bà và vì họ không dọn cho bà chút thức ăn nào cả. Vì bà không có cái thân vật chất thô thiển để neo mình lại, bà thiếu đi sự ổn định để có thể ở lại một nơi và để duy trì một cảm giác gì nhất định.
Rồi bà nảy sinh ý nghĩ: “Mình sẽ lấy nữ trang của mình và bỏ đi”. Một sự trùng hợp là ngay lúc đó mấy người con của bà lại khóc, và một cơn mưa đá gồm máu và mủ bắt đầu đập vào bà. Bà không còn nhìn thấy gì nữa cả, và tâm của bà bắt đầu nhảy loanh quanh nhiều hơn nữa. Chokyi mong muốn chạy đến với ngài Bangar Rinpoche, lúc đó đang hướng dẫn buổi lễ cúng, nhưng rồi bà suy nghĩ: “Ngài là một vị sư. Ngài có thể không thích một phụ nữ đến gần Ngài quá”. Vì vậy, bà vẫn trốn phía sau lưng Ngài. Mặc dù việc cúng lễ làm cho bà cảm thấy dễ chịu nhưng bà vẫn còn sợ.
Rồi bà chạy đến với vị Gomchen. Bà nhìn thấy Ngài trong hình tướng một hình ảnh ánh sáng mờ nhạt của Đức Phật Từ Bi (Đức Quán Thế Âm). Ngài cứ nói đi nói lại: “Hãy thương xót!
Hãy thương xót!”. Chokyi hiểu là vị Gomchen đang hợp nhất tâm của bà với tâm của Ngài, và lúc đó Ngài vẫn đang thiền định trong một trạng thái thanh thản. Những nỗi sợ hãi của bà dịu bớt đi và cái tâm bồn chồn của bà hòa vào trong một niềm hạnh phúc không thể tưởng tượng được.
Sau một lúc, bà trở lại với những suy nghĩ trôi nổi thông thường. Bà nhìn thấy người ta dùng bữa. Vị Gomchen lại làm lễ cúng sur và bà thọ hưởng được những thức ăn cúng cho bà dưới dạng mùi.
Một lúc sau, bà nghe một giọng nói vọng vào từ bên ngoài: “Chokyi, hãy ra đây”. Bà đi ra. Có một người ở ngoài mà bà nghĩ rằng đó là cha của bà. Ông ấy nói: “Hãy ra ngoài này. Ta có cái này muốn chỉ cho con. Ta sẽ để con trở lại ngay”. Vào lúc đó, bà suy nghĩ lần nữa: “Nhà mình bây giờ có nhiều vị lạt-ma. Nhưng họ đều giận mình cả. Chồng và các con mình chẳng cho mình ăn gì cả. Mình sẽ đi theo cha mình vậy”.
Ngay khi bà có suy nghĩ đó, bà thấy mình đang ở trên một con đường trơ trụi, xám xịt, thậm chí không có đến một cái cây hay một cọng cỏ. Từ đó bà có thể nhìn thấy sự vật ở một khoảng cách rất xa, và bà ngắm nhìn một cánh đồng cát mênh mông bằng phẳng. Ở giữa cánh đồng có một con sông lớn chảy qua, nhưng khó mà nói được con sông đang chảy hướng nào. Bà nhìn thấy một cây cầu rộng. Ở phía bên này cây cầu, dưới chân núi có một thành phố lớn.
Người đã gọi Chokyi ra đem bà đến thành phố đó và nói: “Trước tiên con hãy nhìn quanh đây xem thử con có thể thấy ai quen không. Ta sẽ đi qua phía bên kia sông. Con cũng nên qua bên đó”.
Thành phố này đông người đến nỗi bà thấy như mình đang nhìn vào một tổ kiến. Một số người mặc áo quần sặc sỡ, da dẻ đẹp đẽ. Một số người khác mặc áo quần xấu xí và dơ bẩn. Nhưng mọi người đều buồn bã, đang khóc lóc và mặt mày ảm đạm. Chokyi run sợ khi nghĩ rằng: “Mình có thể sẽ rơi vào hoàn cảnh như những người này”.
Trong đám đông người đó, Chokyi nhận ra Chogon, người trước đây chăm sóc đàn gia súc của bà. Nhìn Chokyi, anh ta thận trọng hỏi: “Này bà chị, bà chị đến đây à?”. Bà nói: “Vâng, tôi vừa mới đến”. Rồi Chokyi dồn dập hỏi anh ta rất nhiều câu hỏi: “Anh sống ở đây à? Những người này là ai? Tại sao họ khổ sở? Có người bảo tôi đi qua phía bên kia cầu, và tôi nghĩ tôi có thể sẽ đi qua bên đó. Ai ở bên đó vậy?”.
Chogon đáp: “Đây là thành phố chuyển tiếp, biên địa giữa những người sống và những người chết. Chúng ta chờ ở đây vì tuổi thọ của chúng ta trên thế gian chưa hết. Những người ăn mặc tử tế và da dẻ đẹp đẽ là những người đã tích lũy được công đức trong quá khứ. Họ đang chờ tích lũy thêm một số công đức nữa mà gia đình họ ở dương gian hồi hướng cho họ. Những người ăn mặc dơ bẩn và da dẻ xấu xí là những người đã không tích lũy được công đức gì cả, cũng không có ai tạo công đức cho họ cả. Ngay khi tuổi thọ của chúng ta đã hết, mỗi người chúng ta sẽ đi qua cầu sang phía bên kia sông. Pháp Vương của các Tử thần và những người thừa hành của ông ta đóng ở bên đó. Họ sẽ kiểm tra những bản ghi chép nghiệp của mọi người. Rồi họ sẽ cho những người có công đức đi lên những cõi trên hoặc đi đến giải thoát. Những ai đã phạm những hành vi độc ác sẽ bị đưa xuống những cảnh giới địa ngục. Ở trong cõi địa ngục, họ sẽ đau khổ vì bị thiêu nấu không thể tưởng tượng được. Suốt ngày suốt đêm tôi lo lắng về số phận đang chờ đợi tôi. Tôi đã đi qua bên kia vài lần, nhưng họ bảo tôi hãy chờ ở phía bên này, bởi vì tuổi thọ của tôi chưa chấm dứt. Chị ơi, chị có thể đi qua phía bên kia để xem thử các Tử Thần nói gì. Nếu chị còn phải chờ ở đây thì chị hãy trở lại”.
Sự xét xử của các Tử thần
Chẳng bao lâu, Chokyi được gọi đi qua bên kia sông. Ở bên đó, bà nhìn thấy một bức tường rất lớn. Phía bên kia bức tường, có một ngai vàng khổng lồ. Vị Pháp Vương của các Tử thần đang ngồi trên ngai vàng đó. Ngài có nước da màu vàng và mặc áo cà sa với những họa tiết bằng vàng. Hai tay Ngài ở trong tư thế thiền định. Ngài có một khối u trên đỉnh đầu. Có những tấm rèm lụa bao quanh Ngài và lọng thêu kim tuyến che trên đầu Ngài. Đủ mọi loại trang trí và phẩm vật cúng dường được sắp xếp chung quanh Ngài. Vì vậy, Chokyi nhìn thấy Pháp Vương trong thân tướng của Đức Phật.
Ở bên phải Pháp Vương là một trong các vị Tử thần có thân người đầu bò, đang cầm trong tay một cái gương soi. Ở bên trái Pháp Vương là một vị Tử thần Đầu Khỉ trên tay cầm một cái cân. Phía trước Pháp Vương là một Tử thần Đầu Nai đang đọc và đang viết những sổ ghi chép. Ngoài những vị này ra, còn có đủ loại Tử thần với những đầu thú khác nhau. Mặc những loại trang phục khủng khiếp, họ nhe răng nanh bén nhọn và nhìn chòng chọc với những đôi mắt lồi ra, vung mọi loại vũ khí và hét vang khắp nơi đều nghe thấy: “Giết! Giết! Đánh! Đánh! Đánh! Ha! Ha! Hung! Hung!”. Họ đang chạy và nhảy khắp nơi. Chỉ nhìn thôi là đã thấy khiếp đảm rồi. Số phận của khoảng 300 người đang được tranh luận ở đây.
Trong số những người này, có một vị tăng tay cầm tràng hạt. Pháp Vương đang hỏi vị tăng những câu hỏi chi tiết về những gì vị ấy đã làm khi còn sống trên thế gian. Vị tăng kể ra nhiều việc thiện. Còn về hành vi xấu xa, vị ấy chỉ nói đến việc ăn thịt.
Theo lệnh của Pháp Vương, vị Awa Đầu Bò và những Tử thần Đầu Khỉ kiểm tra hồ sơ. Họ báo cáo với Pháp vương là, ngoài những chỗ sai biệt không quan trọng, những điều vị tăng nói là đúng sự thật.
Vào lúc đó, vị Bạch y Hộ thần xuất hiện, biện hộ cho vị tăng và nói: “Người này đã làm được những việc thiện không thể tưởng tượng được và không làm điều gì xấu xa cả. Ông ta không thể thậm chí bị đưa đến cõi người hay cõi chư thiên mà chỉ nên được đưa đến một cõi tịnh độ của Phật”. Ngài trình ra một túi đựng đầy những viên sỏi trắng tượng trưng cho những hành vi thiện lành của vị tăng.
Rồi Quỷ Đen Tối xuất hiện và tranh luận chống lại vị tăng. Hắn nói: “Người này đã làm nhiều hành vi bất thiện trong nhiều đời trước. Vì vậy, ông ta phải bị đưa xuống địa ngục”. Hắn trưng ra một cái tách đựng đầy những viên sỏi đen tượng trưng cho những hành vi độc ác của vị tăng.
Sau khi so sánh hai thứ sỏi, họ thấy rằng những việc tốt vượt xa những việc xấu. Pháp Vương nhận xét: “Tất cả những hành vi bất thiện của ông ta có vẻ như đã được những hành vi thiện lành xóa bỏ đi”.
Rồi Pháp Vương tuyên bản án: “Ông đã đạt được mục đích của cuộc sống làm người. Sinh làm người tốt hơn sinh vào cảnh giới chư thiên. Vì vậy, ta sẽ đưa ông sinh làm con trai trong một gia đình giàu có. Ở đó ông sẽ theo đuổi con đường tu hành Chánh pháp và sẽ tiến bộ”. Sau đó, vị tăng biến mất trên con đường lốm đốm sắc vàng.
Rồi các Tử thần tra vấn một người khác. Người này nói: “Tôi không có chi tiết nào về những việc thiện để trình bày với các Ngài. Tôi nghèo và không đủ ăn. Vợ tôi cũng chẳng có tín ngưỡng gì. Vì thế, ngoài chuyện đóng thuế ra tôi không làm từ thiện nhiều. Tôi không thể thực hành Chánh pháp, về mặt vật chất cũng như tinh thần. Tôi đã giết một số cá, gà, dê và cừu. Bị ảnh hưởng của những kẻ xấu, tôi có ăn trộm của một vài vị ẩn sĩ.
Tôi rất ân hận!” Anh ta run rẩy và tự đánh vào mình. Những Tử thần tay cầm vũ khí cười vui vẻ. Chokyi rất sợ hãi.
Sau khi kiểm tra, các Tử thần báo cáo với Pháp Vương: “Có thể nào đếm được số cá người này đã giết không? Anh ta cũng đã giết 29 con gà, 47 con heo, 43 con cừu và 60 con bò. Hãy nhìn số côn trùng bị anh ta giết hại khi anh ta đốt một ngọn núi! Cùng với bốn kẻ khác, anh ta đã đánh đập và ăn cắp đồ đạc của những người đi hành hương”.
Nghe vậy, Pháp Vương nói: “Ngươi đã phạm những hành động xấu xa như vậy. Ngươi có một trái tim thối rữa. Ngươi không quan tâm một chút nào đến bản thân mình hay sao? Trộm cắp và làm hại người có tín ngưỡng thậm chí còn nghiêm trọng hơn là giết thú vật nữa”. Ngài nói với các Tử thần: “Bây giờ hãy để cho hắn chịu đau khổ trong những cõi địa ngục khác nhau. Vì hắn đã thụ hưởng những thực phẩm ăn cắp vô đạo đức, hắn phải bị liên tục cho ăn kim loại nóng chảy”.
Vị Bạch y Hộ thần xuất hiện và bào chữa xin giảm án, đưa ra vào khoảng 20 viên sỏi trắng tượng trưng cho những việc thiện của người đó. Rồi Quỷ Đen Tối xuất hiện và đòi hỏi phải giam hắn vào cõi địa ngục thấp nhất. Quỷ trưng ra một lượng lớn sỏi đen có kích cỡ bằng núi Tu-di. Lập tức các Tử thần đặt thòng lọng quanh cổ, tóm lấy ngực hắn bằng những móc sắt và kéo hắn vào phòng giam bằng sắt đang cháy.
Kế tiếp xuất hiện một tu sĩ mang một túi thuốc trên vai. Khi được thẩm vấn, ông ta liệt kê ra mọi lời cầu nguyện ông ta đã tụng niệm và tất cả nững việc cúng dường ông ta đã thực hiện. Ông ta luôn giúp đỡ những đạo nhân nghèo. Ông ta là thầy thuốc và trị bệnh với tất cả khả năng của mình và đã chữa lành cho nhiều người. Ông ta không bao giờ đòi hỏi tiền công, bệnh nhân biếu cái gì thì ông ta lấy cái đó. Ông chưa bao giờ cho ai nhầm thuốc. Bản thân ông không giết hại một con gia súc nào, nhưng là chủ nhà ông ta có gián tiếp liên quan đến chuyện giết hại gia súc.
Rồi các Tử thần kiểm tra tấm gương soi và nói: “Ngươi đã thành thật về những việc thiện mình đã làm. Nhưng khi người anh tên Chongthar của ngươi bị bệnh, đã đến nhờ ngươi chữa trị. Vì ngươi ghen tức với sự giàu có của ông ta, ngươi đã cho ông ta thuốc sai và ông ta bệnh nặng hơn trong tám tháng. Cuối cùng ngươi cũng chữa lành cho ông ta, nhưng ngươi đã lấy đi một bộ giáp tốt của ông ta thay vào tiền công chữa bệnh của ngươi. Ngươi cũng đã giết hại 173 con gia súc”.
Khi họ kiểm tra những viên sỏi, số lượng sỏi trắng có nhiều hơn một ít. Tuy nhiên, khi đem cân thì trọng lượng những hành vi bất thiện lớn hơn nhiều.
Thấy vậy, Pháp Vương nói với vị tu sĩ: “Giá mà ngươi không cho thuốc sai, có lẽ ngươi sẽ được tái sinh vào cõi người hoặc cõi thiên”. Rồi Ngài ra lệnh cho các Tử thần: “Hãy đem hắn đến cái hồ thuốc độc đang sôi. Cho hắn liên tục uống thuốc độc đang sôi. Đóng một ngàn cái gai sắt vào thân hắn. Khi những việc làm bất thiện của hắn được gột rửa sạch rồi thì hãy để cho hắn đi lên”. Các Tử thần chộp ngực ông ta bằng móc sắt và kéo ông ta đi giữa sự huyên náo.
Rồi đến lượt một người mặc một bộ đồ bằng len màu xanh dương thú tội của mình: “Khi người vợ thứ nhất của tôi bỏ tôi, tôi cũng mất luôn 200 con gia súc. Để trả thù, tôi đốt hai căn nhà của bố mẹ cô ấy, đốt 75 con gia súc. Tôi cũng bắn và giết chết một người đàn ông và một phụ nữ đang cố chạy trốn. Rồi tôi lấy vợ khác và trở nên giàu có. Để tẩy sạch những hành vi tội lỗi của tôi, tôi đi những chuyến hành hương khắp xứ Tây Tạng trong hai năm và đã được gặp những vị lạt-ma và được ban phước. Tôi khóc và thú nhận tội lỗi của tôi trước mọi người. Tôi đã nhận được quán đảnh và những lời chỉ dạy từ một vị Đại Thiền giả và đã thiền định về bản chất của tâm, về sự hợp nhất của quang minh, tỉnh giác và thoáng đạt. Tôi đã tuân theo nhiều bữa nhịn ăn và đã tụng đọc nhiều kinh và những bài nguyện”.
Nghe đến đây, Pháp Vương nói: “Có nhiều người làm những việc độc ác, nhưng rất ít người tẩy sạch chúng. Mặc dù không có công đức gì trong những việc làm tội lỗi, nhưng nếu ngươi đã tẩy sạch chúng thì chúng có thể được tiêu trừ. Đó là công đức của chúng. Nếu ngươi đã làm việc thiện mà không có việc gì ác, ngươi sẽ trở thành một người dẫn dắt những người khác có liên quan với ngươi đi đến giải thoát. Nhưng ngươi sẽ tái sinh vào cõi người và sẽ thực hành Kim Cương Thừa hoặc con đường Mật tông, và trong bốn đời kế tiếp nhau, ngươi sẽ đạt Phật quả. Vậy ngươi hãy đi theo con đường màu vàng là con đường dẫn đến cõi người và cõi chư thiên”.
Sau một thời gian, nhiều người đã đi đến tòa án của Pháp Vương cùng với Lingza Chokyi đều đã được đưa lên những cõi trên hay đã bị đưa xuống những cõi dưới. Nhiều người được những vị thầy của họ dẫn lên cõi trên. Rồi những người mới lũ lượt kéo nhau vào.
Pháp Vương đột ngột đứng dậy và nói: “Ông ta đã đến kìa”. Ở trên đường đèo, phía xa, Chokyi nhìn thấy một vị tăng có dáng người to khỏe tiến đến gần và có khoảng 300 người chung quanh ông ta. Nhóm người này còn có khoảng 3.000 người đi theo sau nữa. Tất cả đều đang nhảy múa và hát UM MANI PADME HUNG. Vị tăng tuyên bố: “Ta tên là Jochung, Người Hát UM MANI PADME HUNG. Đây là thế giới của trung ấm và địa ngục. Tất cả những ai có mối liên hệ với ta hãy đi theo ta. Ta sẽ dẫn các người đến cõi tịnh độ”. Bỗng nhiên những cánh cửa địa ngục tự nhiên mở ra. Các Tử thần ngất xỉu và vũ khí của họ rơi khỏi tay họ. Cả dòng chúng sinh đi theo vị tăng. Những Tử thần đứng lên với sự tôn kính và ra lệnh: “Nhiều người có thể ra đi nhưng không phải tất cả”. Họ bắt lại khoảng 300 từ dòng người đó và đưa những người này trở lại những phòng giam địa ngục của họ.
Chokyi không có mối liên hệ gì với vị tăng này nên bà không đi theo ông ấy. Bà hỏi Pháp Vương: “Vị tăng đó đem đi nhiều người mà không cần thẩm vấn gì cả. Ông ta giải thoát rất nhiều người khỏi những qui luật khắt khe của tòa án này. Làm thế nào mà ông ta có quyền năng như vậy?”.
Pháp Vương giải thích: “Vị tăng đó tên là Jochung Ma-we Seng-ge, Người Hát UM MANI PADME HUNG. Ông ấy trở thành một vị tăng khi còn trẻ. Ông phát triển được lòng tin vào Ngài Quán Thế Âm, luôn luôn tụng niệm UM MANI PADME HUNG, và phát triển lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh. Ông ta tuân thủ và cổ vũ những buổi lễ nhịn ăn. 300 người đi cùng với ông đến đây là những người thực hành những việc làm thiện lành và tuân theo việc nhịn ăn cùng với ông ta. Những người mà ông dẫn đi khỏi đây là những người có niềm tin nơi ông ấy, đã thấy, đã nghe, đã tiếp xúc với ông ấy, đã cúng dường ông ấy hoặc đã được ông ấy ban phước lành. Những người bị ngăn lại không được đi với ông ấy là những người không có mối liên hệ gì với ông ấy hoặc có mối liên hệ tiêu cực với ông”.
Người kế tiếp là một ni cô với vẻ quyến rũ. Việc điều tra của toà án cho thấy cô chỉ vui hưởng thụ cuộc sống. Cô không có niềm tin, không làm từ thiện và gây ra nhiều hành vi bất thiện. Cô xin được cho trở lại thế gian để có thể thực hành Chánh pháp. Cô bị đưa xuống địa ngục.
Tiếp theo, một cô gái trong tay cầm chuỗi tràng hạt đang tụng UM MANI PADME HUNG tiến đến. Tên cô ta là Marza Chodron. Cô ta từng được học giáo lý và được ban phước. Cô giữ niềm tin, cúng dường, phục vụ các đạo nhân và qua đời ở tuổi 33.
Cô ta nói: “Tôi được các lạt-ma dạy rằng bất kỳ những hình tướng tốt hoặc xấu và những âm thanh của thế giới bên ngoài khởi sinh thì chúng đều là những ảo tưởng của tâm. Không có gì là thật cả. Vì vậy, tất cả các vị mà tôi nhìn thấy ở đây là những hình tướng tự hiện của chính tâm tôi. Sự thật không có một thực thể nào hiện hữu cả. Tôi không nghĩ là thân tôi hiện hữu. Bất kỳ sắc tướng hay âm thanh gì xuất hiện trong tâm tôi thì cũng không có gì phải lo lắng cả. Vì vậy, chẳng có gì bị nấu hay bị thiêu đốt trong cảnh giới địa ngục cả”.
Nhìn trong tấm gương, họ thấy những việc thiện của cô thậm chí còn nhiều hơn số cô đã kể ra. Nhưng họ cũng lưu ý rằng cô có liên quan gián tiếp đến việc giết hại một nắm côn trùng. Cô ta cũng có liên quan gián tiếp đến việc để cho người ta làm thịt bảy con gia súc để phục vụ tiệc cưới của cô. Bố mẹ cô dâu và chú rể phải chịu một phần tư hậu quả của việc giết hại này, cô và chồng cô mỗi người chịu một phần tư và người đồ tể chịu một phần tư. Tuy vậy, Pháp Vương cũng khen ngợi tổng thể những điều ghi nhận về cô: “Nhờ quán chiếu về bản chất của tâm, ngươi đã hiểu rõ về sự phi hiện hữu của sự vật. Tất cả sự vật xuất hiện như năng lực của chính tâm ngươi. Ngươi đã tự học hỏi để có được ý thức về sự phi hiện hữu của những ảo tưởng. Ngươi cũng đã học được ý nghĩa về sự bất khả phân của tâm và những đối tượng của tâm. Đây là một lợi thế tuyệt đối. Mặc dù ngươi chưa có thể đạt được nhận thức rõ ràng về chân lý tuyệt đối vì ngươi tu học chưa được lâu, nhưng nhận thức gì mà ngươi đã thực sự đạt được đều có sức mạnh. Mọi hành vi bất thiện không quan trọng mà ngươi phạm phải đã được tẩy sạch. Những cái thấy thanh tịnh về những cõi tịnh độ sẽ không xuất hiện cho đến khi nào ngươi ý thức rõ đúng cái bản chất của tâm. Bây giờ ngươi sẽ tái sinh ở Oddiyana và sẽ tu học Mật tông trong 80 năm. Rồi ngươi sẽ tái sinh vào cõi Tịnh độ Cực lạc và đạt được Phật quả”. Vào lúc đó, thầy của cô ta, Ngài Gomchen Kunga Yeshe, đến. Cô ra đi dọc theo con đường màu trắng cùng với nhiều người có mối liên hệ với vị thầy này.
Một ông lão khoảng 70 tuổi đi đến, trong tay có cầm tràng hạt và bánh xe cầu nguyện và có khoảng 60 người cả nam lẫn nữ đi theo. Họ đang hát UM MANI PADME HUNG. Ông công bố: “Tôi là Sherab Rinchen, người chạm khắc câu chú UM MANI PADME HUNG trên những hòn đá. Xin mời tất cả những ai có liên hệ với tôi đến đây. Tôi đã được mời đến cõi tịnh độ của Ngài Quán Thế Âm”. Có khoảng 400 người đi theo ông ấy. Nhưng có ba người bị các Tử thần kéo lại.
Pháp Vương nói: “Ông ấy tụng đọc UM MANI PADME HUNG gần cả trăm triệu lần, đã khắc UM MANI PADME HUNG trên nhiều hòn đá và ông đã đặt những hòn đá đó bên vệ đường để người ta có thể tỏ lòng sùng kính. Ông có vợ và ba con. Những người đi theo ông là những người có niềm tin nơi ông. Đáng lẽ ông đã có thể giải thoát được nhiều người nhưng ở Tây Tạng có thái độ cho rằng một vị lạt-ma mà có gia đình là không đúng nên nhiều người không có niềm tin nơi ông ta”.
Nhìn thoáng qua những cõi địa ngục
Đến bây giờ, những người đi đến toà án cùng với Chokyi đều đã được đưa đi những cõi trên hay xuống những cõi dưới sau khi bị tra vấn. Chỉ trừ Chokyi ra, trong số những người đã đến đây trước không còn lại một ai cả. Nhưng những người mới tiếp tục đến và đang chờ đợi. Chokyi suy nghĩ: “Mình không có những danh sách dài về việc thiện để trình bày. Nói dối sẽ không có hiệu quả đâu. Mình nên làm gì bây giờ?”. Bà bắt đầu run sợ.
Vào lúc đó, Pháp Vương nhắm mắt lại và bắt đầu trầm ngâm suy nghĩ. Rồi Ngài dặn dò các Tử thần, “Hãy để cho bà này nhìn thấy thế giới của những người chết. Hãy để cho bà ấy nhớ những gì mình nhìn thấy. Rồi đem bà trở lại đây ngay”.
Một Tử thần Đầu Hổ bắc xuống một cái thang màu đen. Vừa leo xuống, ông ta vừa bảo bà xuống theo để nhìn thấy những cõi địa ngục. Khi xuống hết thang, bà thấy mình đang đứng trên một nền sắt đang cháy bỏng. Nền sắt này được vây quanh bởi một bức tường sắt khổng lồ đang cháy; có tất cả tám tầng. Trên tám tầng khác nhau đó, Chokyi chứng kiến chúng sinh đang trải qua những loại cực hình khác nhau.
Trong số những cõi địa ngục mà Chokyi, Tsophu Dorlo và những delog khác đã đi qua, có tám cõi nóng (hỏa ngục) và tám cõi lạnh (hàn băng) với những cõi địa ngục phụ. Chúng sinh trong những cõi địa ngục đó đang chịu khổ với những mức độ đau đớn khác nhau do những mức độ nghiệp tiêu cực khác nhau của những hành vi thân, khẩu, ý đã phạm phải chủ yếu là do nóng giận hay thù ghét trong những đời sống đã qua.
Ở tầng thứ nhất kể từ trên xuống, nhiều chúng sinh đang bị quăng xuống nằm ngửa trên nền đang cháy bỏng và đang bị những kẻ hành quyết cắt ra từng mảnh. Mọi chúng sinh đều xem nhau là kẻ thù và đang giết chóc nhau với sự giận dữ ghê gớm. Mỗi khi những chúng sinh đó ngất đi thì người ta nghe thấy một giọng nói: “Mong các ngươi sống lại”. Lập tức những chúng sinh đó được làm cho sống lại và rồi lại trải qua những sự tra tấn như vậy nữa. Những chúng sinh đó là sự tái sinh của những người đã làm hại cha mẹ và bạn bè của họ với những ý tưởng đầy căm thù.
Ở tầng thứ hai, những kẻ hành hình đang ném nhiều chúng sinh xuống cái nền đang nóng bỏng. Họ vạch những đường trên thân của những người này và cắt họ ra thành nhiều mảnh theo những đường vạch sẵn với những lưỡi cưa nóng bỏng. Những chúng sinh này là sự tái sinh của những người thợ săn, đồ tể hoặc là những người đã đầu độc những người khác.
Ở tầng thứ ba, nhiều chúng sinh đang bị quăng vào trong những cái cối bằng sắt nung nóng và bị nghiền nát với những cái búa nóng bỏng. Nhiều chúng sinh đang bị nghiền ép giữa những ngọn núi nóng bỏng. Họ là những tái sinh của những người thợ săn, đồ tể, những kẻ giết hại gia súc và những kẻ làm ra vũ khí.
Ở tầng thứ tư, nhiều chúng sinh đang bị nướng trên những ngọn lửa và người ta chỉ có thể nghe được tiếng la hét của họ. Họ là những kẻ buôn bán thuốc độc và những kẻ giết người, ngựa và chó. Họ cũng là những kẻ đã xúc phạm những người có tín ngưỡng và là những người chế tạo vũ khí.
Ở tầng thứ năm, trong một phòng khổng lồ nóng bỏng, nhiều chúng sinh bị thiêu cháy bên trong lẫn bên ngoài. Mọi người đều la khóc vang như sấm. Họ là những tái sinh của những kẻ đã xúc phạm Tam Bảo, có quan điểm đồi trụy, gây chuyện đánh nhau và trộm cắp của những người có tín ngưỡng.
Ở tầng thứ sáu, nhiều chúng sinh bị đốt trong những đống lửa lớn. Thỉnh thoảng kẻ hành hình còn móc họ ra, lấy búa nóng nghiền nát họ rồi lại quăng họ vào lửa. Đây là những người đã chối bỏ chân lý nhân quả của những hành vi thiện và ác. Và họ đã tàn nhẫn giết hại chúng sinh khác như là cá và rắn và sự xem thường những nghiệp quả.
Ở tầng thứ bảy, nhiều chúng sinh bi hầm trong kim loại nóng chảy. Âm thanh của kim loại đang sôi và những tiếng kêu rống nghe vang như sấm. Những người này đã phạm những tội ác như đốt rừng làm chết nhiều sinh linh và phá hủy những đền đài tôn giáo.
Trên tầng thứ tám kể từ trên xuống, nhiều chúng sinh bị đóng đinh xuống nền nhà nóng bỏng và thân của họ bị cắt xẻ, bị đánh và tra tấn bằng nhiều dụng cụ khác nhau. Khi chúng sinh bị thiêu đốt, ngọn lửa chui ra từ những lỗ trên thân họ. Họ là những người chưa bao giờ tích lũy được hành vi thiện lành nào, đã phạm năm tội không thể đo lường được, và nhiều tội không thể đo lường khác, đã phá hủy những đền đài tôn giáo và những tài nguyên của cộng đồng. Họ cũng là những người đã vi phạm các mật nguyện, có tà kiến và khiến cho niềm tin vào những phương hướng và mục tiêu của Mật tông bị phá hủy.
Chokyi cũng đi thăm những cõi địa ngục phụ gọi là “bốn địa ngục lân cận”. Trong những cõi này, nhiều chúng sinh đang chìm trong một đầm lầy dơ bẩn và đang bị côn trùng ăn. Nhiều người đang bị kéo lưỡi ra và đang bị cày lên bằng những lưỡi cày nóng bỏng. Nhiều người liên tục bị chấn thương khi họ trèo lên trèo xuống những ngọn núi được phủ bởi những khu rừng đầy vũ khí nhọn nóng bỏng, hoặc khi họ đi bộ qua những cánh đồng đầy lưỡi dao cạo. Những cuộc tra tấn này là kết quả của việc làm ô nhiễm những nơi thiêng liêng thanh tịnh, cáo buộc những người vô tội, bám luyến vào những đối tượng dâm ô, thụ hưởng không chính đáng những tài sản của tôn giáo hoặc tài sản của cha mẹ.
Rồi Chokyi đến thăm những địa ngục lạnh lẽo, ở đó rất nhiều những chúng sinh trần truồng đang bị lạnh cóng và run rẩy trên một cái nền băng giá với những cơn gió lạnh cắt da. Thân họ bị vỡ ra thành nhiều hình thù và màu sắc khác nhau và họ kêu la đủ kiểu.
Thông điệp gửi Người Sống
Cuối cùng Chokyi trở lại tòa án của Pháp Vương. Ngài nói với bà: “Ngươi là một trong số những người bị đưa đến đây vì nhầm lẫn, do có sự xáo trộn tên và bộ tộc. Thân xác ngươi vẫn còn an toàn ở nhà. Mặc dù nhìn vào tấm gương ta không thể thấy có niềm hạnh phúc nào đang chờ đợi ngươi, nhưng lần này ngươi có thể trở về nhà. Khi ngươi trở lại đây lần sau, hãy chắc chắn rằng ngươi không có lý do gì để lo lắng vì đã không thực hành Chánh pháp. Ngươi đã tận mắt nhìn thấy hậu quả của những hành vi thiện lành và độc ác”. Rồi Pháp Vương gửi những thông điệp sau đây đến cho những người trên thế gian:
Có nhiều người đang hưởng được một cuộc sống làm người hoàn hảo.
Nhưng họ ra đi trắng tay, không đạt được thành tựu nào về Pháp.
Hãy chuyển đến những người vô tâm đó những thông điệp này:
Hãy nói cho họ biết chính ngươi đã đến Thế giới của Người Chết.
Hãy nói cho họ biết ngươi thực sự đã gặp Pháp Vương.
Hãy nói cho họ biết ngươi đã nhìn thấy 16 cõi địa ngục.
Hãy nói với họ rằng đại dương luân hồi là mênh mông.
Mặc dù con số chúng sinh nam nữ là vô cùng,
Khi họ đã bị nghiệp đeo đuổi,
Không ai có một nơi nào khác để đi ngoại trừ một nơi [tòa án của các Tử thần]
Khi kết quả của những hành động bất thiện của các ngươi đã đến với các ngươi,
Tất cả hiện tướng sẽ khởi sinh như là kẻ thù của các ngươi.
Không có gì là không chống lại các ngươi.
Chẳng hạn, một ngọn lửa từ các ngươi sinh ra sẽ đốt cháy các ngươi.
Ngọn lửa đó chẳng đến từ nơi nào khác đến.
Việc khởi sinh những nhận thức của chính các ngươi như những kẻ thù
Là địch thủ lớn hơn bất kỳ một thế lực nào.
Ai làm ra những vũ khí khủng khiếp đó?
Làm sao họ có được những vũ khí đó? Ai làm ra chúng và chúng được trao cho ai?
Ai là người đã nuôi dưỡng
Những kẻ hành hình gớm guốc đó của các Tử thần?
Những hiện tượng của địa ngục là [như huyễn], như những giấc mộng của các ngươi.
Các ngươi sẽ không nhận rõ được tâm mình là Phật
Trừ phi các ngươi biết nhận thức rõ bản chất thoáng đạt của mọi hiện tướng.
Khi các ngươi biết những phương cách để giải thoát những nhận thức của chính mình
Các ngươi sẽ không thấy địa ngục đâu cả cho dù các ngươi có đi tìm.
Cho dù các ngươi có tìm thấy địa ngục thì đó sẽ là một cõi tịnh độ của hỷ lạc.
Những kẻ ngu dốt – những kẻ khiếp sợ bởi chính những hình ảnh do tâm mình tạo ra – thực ra là những kẻ sợ chính cái bóng của mình
Mặc dù không có gì hiện hữu nhưng sự vật vẫn xuất hiện dưới nhiều hình tướng khác nhau.
Mặc dù sự vật xuất hiện nhưng chúng không hiện hữu trong thực tại của chúng.
Đó là bản chất sự hợp nhất của hiện tướng và tính không.
Những ai đã được nghe về bản chất này
Thì nên quán chiếu bản chất mà họ được biết đến đó.
Hãy xác định rằng tất cả đều là những hình ảnh tự tạo.
Tất cả là các ngươi, không tách biệt khỏi các ngươi.
Vậy hãy khẳng định rằng luân hồi và niết bàn chính là tâm của các ngươi đó.
Hãy siêng năng tụng đọc UM MANI PADME HUNG.
Ngươi không nhìn thấy ở đây uy lực, lợi ích của việc tụng đọc đó rồi sao?
Ngươi đừng quên tất cả những thông điệp này.
Hãy kể lại cho mọi người những gì ngươi đã chứng kiến ở đây.
Pháp Vương bảo Chokyi hãy trở về nhà. Thế rồi, khi đứng trước con đường đèo tuyết phủ mà trước đây bà đã đi qua để vào đây, Chokyi bắt đầu bước đi với ý nghĩ trở về nhà. Lập tức bà thấy mình ở trong nhà mình. Giường của bà có tấm chăn ngăn lại. Trên giường của mình, bà nhìn thấy xác chết của một con rắn nằm quấn trong áo quần bà, như bà đã thấy trước đây.
Chokyi tức giận gia đình mình và suy nghĩ: “Họ biết mình sợ rắn. Họ lại để xác con rắn chết quấn trong áo quần của mình nằm trên giường”. Rồi bà quyết định: “Bây giờ dù có sợ hay không mình cũng sẽ kéo con rắn này ra cùng với áo quần và quăng nó ra ngoài cửa”. Bà nhắm mắt lại, hai tay nắm quần áo và kéo. Bà cảm thấy như bà té ngửa ra, nhưng ngay tức khắc bà thấy mình trở lại trong thân của mình, như thể là vừa thức dậy sau một giấc ngủ.
Chokyi thở một hơi thật sâu và người con trai lớn của bà gọi bà: “Ama! Ama!”. Bà nói: “Ah”. Người con trai kêu lên: “Ama sống lại rồi. Mọi người hãy đến đây!” Tất cả những người thân thích của bà vội chạy đến với bà. Chokyi kể lại tất cả những sự việc bà đã trải qua và mọi người đều khóc. Nhớ lại những chuyện đau khổ trong các cõi địa ngục, bà cũng khóc. Dần dà sức khỏe của bà hồi phục. Những người bà con của bà cúng dường cho các vị lạt-ma và rồi trở về nhà của mình.
Vào mùa thu, bà tài trợ một cuộc tụ hội nhiều người để tụng đọc UM MANI PADME HUNG một tỷ lần. Bà cũng cúng dường cho nhiều tu viện.
Chokyi chuẩn bị thực phẩm đầy đủ cho chồng và hai người con trai đi đến một nơi mà họ có thể thực hành Chánh pháp. Bà và cô con gái trở thành những nữ tu và đi hành hương nơi này nơi khác, tận hiến đời mình cho việc thực hành Chánh pháp, từ bỏ những hoạt động thế tục.
Lingza Chokyi nói như thế này để kết luận câu chuyện delog của mình:
Tôi đã tận mắt nhìn thấy những cõi địa ngục. Việc chọn lựa hạnh phúc hay đau khổ nằm trong tay chúng ta, do chúng ta quyết định. Khi sự tự do lựa chọn đã nằm trong tay của chính mình, xin các bạn đừng lo lắng quá nhiều về những gì các bạn cần trong cuộc sống này. Các bạn phải cố làm hết sức cho đời sống kế tiếp của mình.
Điều tốt nhất là hãy từ bỏ những quyền lợi của đời sống này. Hãy cố gắng nhận ra bản chất của tâm mình. Nó mạnh mẽ một cách kỳ lạ.
Điều tốt kế tiếp là tự kiềm chế đừng làm hành động xấu xa nào cả dù thân, khẩu, hay ý và dành mọi nỗ lực của mình cho những hoạt động Chánh pháp.
Tối thiểu thì các bạn cũng nên cúng một phần của cải của mình cho các vị thầy và những cộng đồng Chánh pháp và chia sẻ của cải với những người nghèo khổ.
NHỮNG PHÁN QUYẾT GÌ CHỜ ĐỢI TÔI?
TRẢI NGHIỆM CỦA KARMA WANGRIN
Sau khi bà Karma Wangzin thoáng thấy được bản chất tối hậu, như chúng ta đã đọc ở chương 3, bà cứ đang trôi loanh quanh như một chiếc lông trong không khí, bởi vì bà không còn có thân vật chất để neo tâm thức của mình lại. Bây giờ tâm của bà trong sáng gấp nhiều lần so với lúc bà còn sống.
Một ý nghĩ lóe lên trong tâm bà: “Mình thực sự chết rồi à?”. Bà tuyệt vọng nhìn quanh quất tìm bạn bè nhưng không thấy ai cả. Rồi ngay lập tức bà quên câu hỏi liệu mình đã chết hay chưa. Bà cảm thấy cô đơn và bà nghĩ rằng đó là tại vì bà đã ở trong một nơi tu khổ hạnh lâu quá. Vì vậy, bà tự nhủ: “Chỉ tự nguyện ăn ngon, mặc đẹp và nói chuyện tầm phào thì không nhất thiết là đã thực hành Chánh pháp. Mình nên trở về nhà hơn là cứ ở lại nơi ẩn tu này để mà cảm thấy buồn rầu mãi”. Chỉ với cái ý mong ước trở về nhà, Karma đã thấy mình đang ở tại Otgro, quê nhà của bà, và không còn ở tại tu viện khổ hạnh nơi bà đã ở lâu nay nữa.
Chồng của Karma, là người đứng đầu (tộc trưởng) ở thung lũng này, lúc đó không có ở nhà, vì ông đã đi đến tu viện Traphu cùng với nhiều người khác. Những người còn lại ở nhà đang than khóc om sòm và lớn tiếng gọi Karma bằng tên thường gọi của bà: “Ôi, Lhawang Putri! Ôi! Lhawang Putri!”.
Karma cố gắng cầm hai tay nâng một vài người lên và hỏi:
“Anh bị ông tộc trưởng la rầy à?”. Nhưng không ai trả lời bà hay thậm chí nhìn bà. Rồi bà nghe một tiếng kêu lớn từ bên ngoài nhà bà. Ngoài đường người ta bảo nhau: “Lhawang Putri chết rồi!”. Nhiều người đau buồn nói: “Bà ấy là người khiêm tốn và hào phóng”. Những người khác đang xì xào những lời oán trách: “Bà ấy có xương khoẻ và vai hẹp”, ý nói bà có trái tim cứng nhắc và đầu óc ưa ganh tị.
Rồi bà vào lại trong nhà. Những người trong gia đình bà vẫn đang khóc than om sòm: “Phu nhân của chúng ta đã ra đi rồi!”, “Tội nghiệp cho công chúa quá!”, “Thật đau buồn cho ông tộc trưởng!”. Bà nhìn thấy những giọt nước mắt đau khổ của những người thân yêu. Những giọt nước mắt đó đổ xuống người bà như mưa với những cục máu và mủ cỡ bằng những quả trứng. Cơn mưa nước mắt được kèm theo những tiếng vang như sấm vẫn không ngừng đâm thủng da bà và làm gãy xương bà. Bình thường thì bà thấy mình mặc áo quần như hàng ngày, nhưng khi bà bị một cơn mưa đá thì bà cảm thấy thân bà rất dễ bị tổn thương vì bà trần truồng.
Từ một nơi nào đó không thấy rõ, Karma nghe một giọng nói: “Hãy đi đến tu viện Traphu”. Chỉ cần có ý nghĩ muốn đến Traphu, bà đã thấy mình đang ở đó rồi. Chồng bà và những người khác đang sắp xếp cho một buổi lễ. Hai vị tăng nhanh chóng đặt một cái bàn thờ với những thangka và nhiều đồ cúng trước những bức tranh. Bà suy nghĩ: “Ồ, họ đang chuẩn bị lễ Cúng dường Ngày Thứ Bảy”, một buổi lễ hằng năm của tu viện.
Hết người này đến người khác, nhiều người từ Otgro đến để an ủi chồng bà và mời ông uống những thức uống theo phong tục.
Sau đó, người quản lý điền trang của ông tộc trưởng đến. Ông ta mang theo nữ trang của Karma và đem đặt trên bàn thờ. Rồi ông chào ông tộc trưởng và nói: “Thưa ông tộc trưởng, xin ông đừng khóc. Quả thật đây là một bi kịch nghiêm trọng. Đây là lúc ông có một nỗi đau lớn trong tim. Nhưng bà không giữ trách nhiệm gì như là phu nhân của dinh thự Pagtro cả. Thậm chí bà ấy còn muốn giúp đỡ nhiều cô gái trong vùng lân cận đi tu. Chúng tôi, những người không phải họ hàng thân thích gì, vốn vẫn xem ngón tay trỏ bị đau còn nghiêm trọng hơn chuyện bà ấy qua đời. Bây giờ chúng ta phải tập trung vào việc tổ chức tang lễ”.
Vừa khóc, ông tộc trưởng vừa nói: “Mặt trời đã lên giữa trưa rồi đó. Chúng tôi sống với nhau được một thời gian rất ngắn. Tôi là người mồ côi cha mẹ. Bà ấy là người bạn thực sự duy nhất mà tôi có được. Bây giờ tôi cũng mất bà nữa rồi”.
Rồi ông tộc trưởng dặn dò: “Cho đến khi xong lễ 49 ngày, chúng ta nên để thân xác bà nguyên như vậy, không ướp. Bà ấy là người có thể sống lại như một delog. Lingza Choki chẳng hạn, đã sống trở lại và kể nhiều chuyện xảy ra sau khi chết”. Karma khóc và nghĩ: “Mình chết thật rồi sao?”.
Nhưng chỉ một lát sau đó, bà lại bắt đầu tin là mình đang sống. Cầm tay chồng, bà cố gắng trấn an ông ấy rằng bà vẫn còn sống và rằng không có lý do gì để ông cảm thấy buồn về cái gọi là cái chết của bà. Nhưng ông cũng như những người khác, không ai đáp lại những lời van nài của bà. Bà kết luận rằng mọi người đều giận bà.
Chồng bà bảo một người phụ tá chất những bánh trà lên lưng một con trâu yak đem cho một người nào đó. Nhưng Karma nhìn thấy khi từ trong nhà đi ra, người phụ tá đó đã lẳng lặng lấy cắp một số bánh trà và bỏ vào trong túi xách của mình. Bà lấy làm xấu hổ vì hành vi sai trái của anh ta vì một mối lợi nhỏ mọn như vậy.
Ngay khi những người phục vụ đem bữa ăn đến cho ông tộc trưởng. Karma trông đợi được ăn cùng chồng như thường lệ. Nhưng không ai dọn thức ăn cho bà và thậm chí chồng bà cũng chẳng buồn mời bà dùng một thứ gì đó. Bà khóc và nghĩ rằng: “Bây giờ thậm chí một bữa ăn nhỏ mình cũng không chia sẻ được”. Bà cảm thấy buồn và suy nghĩ về người chồng: “Anh chính là người đã không chịu để cho tôi ở với cha mẹ yêu dấu của tôi và không chịu để cho tôi đi tu và thường nói: “Anh sẽ lo cho tất cả mọi nhu cầu của em”. Và bây giờ anh cư xử giống như những người phục vụ của anh. Tôi không có quyền thậm chí ăn cùng với anh một bữa ăn nhỏ. Bây giờ tôi trở về tu viện khổ hạnh của tôi đây”.
Trước khi ra đi, bà lại suy nghĩ về chồng mình: “Lúc tôi là con cưng của cha mẹ tôi và tự do đi theo Chánh pháp, anh đã dỗ dành quyến rũ tôi với những lời hứa này hứa nọ. Bây giờ anh thậm chí không chia sẻ cho tôi một chút đồ ăn thức uống nào cả, Anh đã lột hết những thứ nữ trang mà cha mẹ tôi đã cho tôi. Trước đây anh xem tôi như một nữ thần. Bây giờ anh đang buộc tôi phải lang thang quanh quẩn như một con chó bị lạc, không ai thèm để ý cả. Tôi không thể tin cậy được điều gì nơi anh cả. Mọi hy vọng của tôi cũng như những lời hứa của anh giống như những hình vẽ trên mặt nước. Cuối cùng tôi hiểu được ý nghĩa của câu nói xưa: “Phụ nữ thường không để ý đến những vấn đề gì cả cho đến khi bị cái dây thòng lọng buộc chặt quanh cổ”. Bây giờ tôi nên cảnh báo cho tất cả những cô gái còn chưa chồng hãy rời bỏ tất cả để làm nữ tu đi theo Chánh pháp”.
Rồi bà hét to lên cho mọi người nghe: “Này ông tộc trưởng và những người phục vụ, hãy nghe tôi nói đây. Tôi ở lại đây thêm chỉ làm phiền các người mà thôi. Các người đang vui hưởng những sự thỏa mãn về của cải và đặc quyền. Tôi sẽ tự vui thú với Chánh pháp. Ông tộc trưởng à, đừng có ân hận gì nhé!”. Không một ai yêu cầu bà đừng bỏ đi, nhưng họ vẫn tiếp tục khóc than. Bà bèn bỏ đi.
Trên thung lũng, bà nhìn thấy một nhóm chư thiên đang đi xuống từ vùng đất cao trong thung lũng. Họ thì thầm: “Có một buổi lễ ở thung lũng Gechu. Chúng ta nên đi đến đó”. Đi theo họ, bà cũng đến được Tu viện Kunga Ling. Những con chó trước đây thường rất thân thiện với Karma bây giờ vừa sủa vừa xông về phía bà. Bà phải trốn và chờ ở bên ngoài. Rồi một đạo nhân đang thực hiện việc cúng dường nước và bánh torma (một loại bánh lễ), quăng đồ cúng dường ra. Mọi loại chúng sinh, giống như những con ruồi đen trên đống rác, thọ hưởng những đồ cúng dường này. Những sinh linh được thực sự cúng dường hưởng những đồ cúng chính. Những kẻ khác chia nhau những đồ cúng còn dư lại; những đồ cúng dường này không phải là đồ hồi hướng cho những kẻ này. Tuy nhiên, những sinh linh yếu ốm và bệnh tật không kiếm được gì cả. Quá tuyệt vọng, họ ngã sấp mặt xuống đất và khóc rất lớn tiếng vì đói và khát. Một số bọn họ vừa ôm nhau vừa khóc. Karma cảm thấy xấu hổ với chính mình vì trông bề ngoài bà còn khá hơn họ nhiều. Một sự thương cảm vô cùng đối với những sinh linh đau khổ đó nảy sinh trong tâm bà, nhưng bà không thể làm gì được cho họ cả; giống như người mù giúp đỡ người mù. Bà khóc thật lớn cho những kẻ đó. Ngay lúc đó, bà nghe một giọng nói:
Thứ nhất, những kẻ đó đã không tích lũy được phước đức gì trong quá khứ cả.
Thứ hai, những sự đau khổ của họ là kết quả của những hành vi độc ác của họ.
Thứ ba, đây là một số nhỏ chúng sinh bị như vậy.
Có buồn rầu cũng không giúp được ai cả. Vậy hãy thoải mái đi.
Rồi Karma muốn đi đến Zagrum để thăm cha mẹ mình. Ngay tức khắc bà thấy mình đang ở Zagrum. Mẹ Karma đang đi quanh một ngôi đền như một hành động tỏ rõ lòng kính trọng và sùng mộ. Karma vội gọi mẹ: “Amala, mẹ cho con chút gì để ăn đi”. Mẹ bà không nói một lời nào và tiếp tục đi vòng quanh ngôi đền. Karma suy nghĩ: “Trước đây khi mình đi ngựa đến và có người khuân vác mang theo quà cáp đến, mẹ thường kêu lên: “Ồ, con gái của mẹ đã đến” và thường tiếp đón mình vui vẻ và còn đem bia chang ra uống mừng. Bây giờ mẹ mình cũng lờ mình đi.
Chắc là thư than phiền về mình của ông tộc trưởng đã đến tay mẹ mình rồi. Mẹ chắc hẳn thương chồng mình, con trai của một người khác hơn là con gái của chính bà”.
Nắm chặt áo mẹ, Karma van nài: “Từ khi con lấy ông tộc trưởng theo sự sắp đặt của cha mẹ, con đã suy nghĩ: “Con chấp nhận bất kỳ chuyện gì xảy đến với con và xem đó là kết quả của số phận mình”. Ông tộc trưởng có quan hệ với một cô gái ở Shar, nhưng lại đổ lỗi cho con và đánh đập con. Con thậm chí đã không nói cho cha mẹ biết về chuyện này. Vì con không thể sinh được một đứa con, bây giờ thậm chí không ai cho con ăn uống gì cả. Xin mẹ cho con chút gì để ăn đi. Rồi con sẽ ra đi để tu hành theo Chánh pháp”.
Mẹ bà đi về nhà mà không nhìn bà hay nói một lời nào cả. Mặc dù mẹ không mời nhưng Karma cũng đi theo mẹ vào nhà. Trong nhà cha mẹ bà, cả gia đình tụ tập lại dùng bữa trưa. Karma đang đói và ngồi xuống bên cạnh mẹ mình, chờ phần thức ăn dành cho mình, nhưng một lần nữa không ai quan tâm đến việc cho bà thức ăn. Sau bữa ăn trưa, mọi người đi ra và Karma cũng đi ra. Tin rằng mọi người giận mình, bà nằm lăn trên mặt đất, khóc lóc với nỗi buồn vô hạn.
Sau đó, bỗng nhiên bà nhớ lại một cách rõ ràng những lời của vị đại sư tên là Norbu Trashi đã chỉ dạy cho bà về cách kiểm tra những dấu hiệu xem mình đã chết hay chưa. Trước tiên bà kiểm tra cái bóng của mình. Không có cái bóng nào cả. Rồi bà kiểm tra những bước chân đi. Những bước chân không có âm thanh nào cả. Bà suy nghĩ: “Than ôi, than ôi, mình chắc hẳn là chết rồi! Đúng thế. Cuộc sống làm người của mình nhanh như một ánh chớp. Mình không còn nhớ chút nào về việc thực hành thiền định của mình. Mình chưa lần nào làm từ thiện một cách hào phóng mà giờ đây mình có thể nhớ lại được. Bây giờ những sứ giả của các Tử thần sẽ bắt mình”. Than khóc và quá buồn rầu, bà lăn ra nằm bất tỉnh trên mặt đất.
Sự hướng dẫn của Chư thiên Bảo vệ - Ngài Bạch Y Tara
Khi Karma tỉnh lại, một bà mặc áo trắng, tóc cột lại phía sau, đang đứng trước mặt Karma, tay cầm một cái trống nhỏ. Bà là Ngài Bạch Y Tara, Chư thiên Bảo vệ của Karma. Ngài cầm tay Karma, an ủi bà và nói:
Kyema! Đừng buồn. Hãy đứng dậy!
Khi những cảm xúc phiền não giày xéo con, nếu con không nhận ra được thật tính của chúng,
Mà khẳng định mình có trải nghiệm Chánh pháp là một điều nói dối và tàn ác.
“Sinh và tử là kết quả của đời sống con người.
Chúng xảy ra không ngừng” – Đức Phật đã dạy như thế.
Chuyện chết không chỉ xảy ra với mỗi mình con
Mọi chúng sinh đều phải đi qua con đường này.
Ta sẽ đi cùng con để con có thể đi trong an bình.
Tuy Karma không nhìn thấy Tara trong suốt cuộc hành trình đi qua giai đoạn chuyển tiếp của mình, nhưng bất cứ khi nào Karma đối diện với một tình huống nghiêm trọng thì Bạch Y Tara xuất hiện và hướng dẫn cho bà. Bạch Y Tara là một vị Phật trong thân tướng người nữ và Karma có quan hệ với Ngài là vì bà cầu nguyện và quán chiếu về Ngài Bạch Y Tara như là hình ảnh Đức Phật. Tuy Ngài Bạch Y Tara có thể hướng dẫn cho Karma, nhưng Karma vẫn phải đối mặt với những hậu quả của quá khứ do mình tạo ra.
Trước khi ra đi cùng với Ngài Bạch Y Tara, Karma nói với mẹ, “Trong lúc con ở đây, mẹ chẳng cho con chút gì để ăn cả. Sau khi con đi rồi, xin mẹ đừng cảm thấy ân hận”. Tâm của bà, tuy vậy, vẫn rất quyến luyến với mẹ cho nên chia tay làm bà rất đau khổ. Bà hy vọng mẹ sẽ đi theo mình, nhưng mẹ bà đã không đi theo.
Khi Karma đi mỗi lúc một xa hơn, cảnh thung lũng quê nhà của bà cuối cùng cũng khuất sau một ngọn núi lớn. Thổn thức vì buồn rầu, bà đi đến một ngã ba đường. Bà đi vào con đường ở giữa. Ngay lúc đó, ở trên đỉnh một ngọn núi có chóp nhọn ở phía tây, bà nhìn thấy một đạo nhân mà bà nhận ra là chú của bà.
Ông ấy tóc hoa râm và đang cầm một chuỗi tràng hạt màu đen. Tay và chân ông cử động như thể là ông đang nhảy múa. Ông nói lớn cho bà biết rằng bà đã đi sai đường.
Ông chỉ dẫn cho bà về con đường và những ánh sáng bà sẽ trải nghiệm trên cuộc hành trình chuyển tiếp này. Rồi bà nghĩ đến chuyện leo lên ngọn núi, nhưng một cơn bão mạnh bất ngờ ập đến. Cơn bão cứ không ngừng tung bà lên trời rồi lại quăng bà xuống đất.
Cuối cùng, Karma thấy mình ở giữa một đám đông chúng sinh hình thù và mặt mày trông khiếp đảm. Họ nhìn chằm chằm vào bà với những đôi mắt to và lồi ra. Họ có những cái răng nanh dài và nhô ra của họ làm bà sợ. Họ măc đồ lông cọp và beo hoặc bằng da người với những đồ trang sức bằng xương. Họ đang thưởng thức món óc hầm trong những cái tô bằng sọ người và đang loay hoay với những đống ruột người với đôi tay trần của họ. Những chúng sinh khác đang vung lên cao bên trên đầu họ đủ mọi loại vũ khí. Tất cả đều hét ầm lên: “HUNG! HUNG! PHAT! PHAT! Đánh! Đánh! Giết! Giết!”. Karma sợ hãi vô cùng. Bà thậm chí không còn có thể nghĩ về gia đình hay bạn bè gì nữa cả.
Ngay sau đó, bà thấy mình đang ở bên rìa một cánh đồng mênh mông. Cơn bão khủng khiếp bây giờ đã tan đi. Những tiếng la hét “Giết! Giết” từ đâu đó vẫn vang đến tai bà như những tiếng sấm từ xa. Nhưng nỗi đau khổ và sợ hãi tồi tệ nhất đã dịu xuống phần nào, ít nhất là vào lúc này.
Karma lại nhớ đến cha mẹ, gia đình, bạn bè và bà kêu tên họ. Nằm lăn trên mặt đất, bà khóc lớn và than vãn: “Làm sao mọi người lại có thể đưa tôi đi xa một mình như thế này mà không hề nói cho tôi một lời cảnh báo nào về sự nguy hiểm?”.
Vào lúc đó, Ngài Bạch Y Tara lại hiện ra trước mặt bà. Nắm lấy áo Ngài, Karma khóc và hỏi: “Chị ơi, cánh đồng này gọi là gì? Cái thành phố khổng lồ ở đằng xa kia tên là gì? Tên chị là gì, thưa Chị? Tôi có cha mẹ, chồng và bà con thân thích, nhưng tôi đã không bàn bạc với ai về chuyến đi này cả. Tôi bỗng nhiên đến nơi đây – tôi không thể cưỡng lại được. Xin chị hãy giữ lấy số nữ trang này của tôi và hãy giúp tôi trở về nhà”.
Ngài Bạch Y Tara đáp lại: “Vì lực hút của sự mê lầm, những nhận thức của chính con đã khởi sinh dưới dạng kẻ thù đối với con. Cánh đồng này to lớn như thể là cái nắp che phủ bầu trời. Cánh đồng này được gọi là Cánh Đồng Sa Mạc của những Lưỡi Dao Cạo. Đây là con đường đi đến địa ngục dành cho những chúng sinh mang những nghiệp ác. Thành phố lớn kia là Đại Đô Thị của những Người Chết. Nếu con không nhận ra ta, ta xin giới thiệu tên bí mật của ta là Kim Cương Du Già Mẫu (Vajrayogini). Ta và con là những người bạn không thể tách rời nhau được, giống hình với bóng. Con có gia đình và bạn bè, nhưng con đã phải rời bỏ mọi người, thậm chí rời bỏ cả thân con nữa. Con đã phải rời bỏ bạn bè và của cải của con, không có sự lựa chọn nào khác. Bây giờ con đã đến giai đoạn gọi là trung ấm. Con đang mang theo trên vai con những gánh nặng nghiệp quả của chính con. Nếu con muốn trở lại làm người thì đáng lẽ con đã phải tu hành. Đáng lẽ con phải bố thí hào phóng cho những người nghèo khổ. Đáng lẽ con phải đi đến các tu viện và những nơi hành hương. Đáng lẽ con phải từ bỏ mọi tham vọng trần thế và phát triển năng lực quán chiếu trong bản chất của tâm”.
Bỗng nhiên Karma nhìn thấy một cơn mưa những lưỡi dao cạo từ trên trời rơi xuống và một rừng gươm từ dưới đất đâm lên. Những bộ phận thân thể và những miếng thịt tràn ngập cánh đồng. Karma ngã xuống đất bất tỉnh vì sợ hãi và bàng hoàng. Khi tỉnh lại, bà suy nghĩ: “Mình chết thật rồi à?”. Một lần nữa Ngài Bạch Y Tara lại giải thích cho bà: “Con đã bỏ lại xác thân con ở trên thế gian rồi. Một số người thân và bạn bè con đang thức canh quanh xác con. Một số đang khóc và gọi tên con. Một số đang lo thu xếp tang lễ. Rồi một số khác đang nói: “Ồ, bà ấy là một vị Phật ẩn danh”.
Sau cùng, Karma cũng nhận ra sự thật: “Hỡi ôi! Bây giờ mình đã chết rồi! Sự thật làm cho bà bị chấn động rất mạnh. Tâm bà tràn đầy những ý nghĩ hối tiếc vì đã không đem cuộc đời mình để phụng sự Chánh pháp. Khi bà bắt đầu suy nghĩ về những hành vi xấu xa mà bà phạm phải khi còn sống, những hành vi đó cứ liên tục hiện ra rõ ràng trước mắt bà. Bà không thể nhìn thấy gì cả ngoại trừ những hành động xấu xa của mình. Nghĩ rằng: “Bây giờ mình không thể ra khỏi nơi đây,” bà than vãn:
Những chúng sinh đồng cảnh ngộ của tôi ơi, xin hãy hiến trọn đời mình cho Chánh pháp thiêng liêng khi các bạn vẫn còn tự do.
Của cải mà các bạn đã hăng say tích lũy được không có thực chất gì cả.
Hãy đem cúng dường Tam Bảo.
Những hoạt động mà bạn đã dốc sức vào không có mục đích gì cả.
Hãy từ bỏ mọi nỗ lực đó đi, nhưng hãy cố gắng cầu nguyện và thiền định.
Những cuộc tụ họp của gia đình và bạn bè cũng giống như những buổi tụ họp của những kẻ lữ hành.
Hãy cắt đứt những bám luyến với gia đình, bè bạn và hãy đi đến những tu viện khổ hạnh.
Trong lúc bạn đang thọ hưởng cuộc sống làm người, bạn phải hiến dâng đời mình cho Chánh pháp thiêng liêng.
Bởi vì bạn không thể tin cậy vào một điều gì khác.
Hãy từ bỏ sân hận, bám luyến và ganh tỵ
Hãy tỏ lòng tôn kính và niệm chú Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn (Thần chú sáu âm)
Để thanh tẩy thân, khẩu, ý.
Cầu mong tâm bạn an trú trong thiền định!
Với sự ân hận không kiềm chế được, Karma khóc lóc và tự đánh mình rồi thưa với Ngài Bạch Y Tara: “Chị ơi! Tôi đã không tu hành nhiều nhưng tôi cũng không làm nhiều điều xấu xa. Thế mà tôi lại bị một cơn bão mạnh đánh đập. Tôi bị kẹt giữa những tia chớp nhiều màu sắc với những tiếng gầm thét “Đánh! Đánh! Giết! Giết!” giống như hàng ngàn tiếng sấm cùng một lúc. Tôi đã đối mặt với những điều khủng khiếp không thể tưởng tượng được. Tất cả những chuyện này là gì vậy chị?”.
Ngài Bạch Y Tara trả lời:
“Sự xuất hiện của cơn bão là sự chào đón của các sứ giả Thế giới Người Chết đối với con. Các chúng sinh trong nhiều hình tướng khác nhau là sự thị hiện của những chư thiên thanh thản và phẫn nộ ở bên trong chính con người con. Họ đang vang lên âm thanh tối hậu, nhưng vì những nhận thức tiêu cực của chính con nên con nghe ra là “Giết! Giết!”. Việc các loại vũ khí được vung lên là sự giải phóng những cảm xúc gây phiền não của con ra khỏi những gốc rễ của chúng. Nhưng con nhìn thấy chúng như là một cơn mưa vũ khí bởi vì những nhận thức của con khởi sinh như là những kẻ thù của chính con. Từ nay trở đi, con phải suy nghĩ, tôi nương náu trong những hình ảnh và âm thanh, nhận thức chúng như là những thân tướng và âm thanh Phật.
Những hiện tướng của ánh sáng nhiều màu là những ánh sáng của những chư thiên thanh thản và phẫn nộ của chính tâm con. Những ánh sáng ngũ sắc là ánh sáng của Ngũ Bộ Như Lai Phật. Vì vậy, hãy suy nghĩ rằng tôi nương tựa nơi các vị đó.
Mọi âm thanh đều là âm thanh tự nhiên. Chúng không phải là một thực thể riêng biệt mà là một biểu hiện của tính nhất thể. Tất cả những âm thanh, ánh sáng và tia sáng này đã khởi sinh như là những hình tướng tự hiện của chính tâm con. Đừng xem những nhận thức của chính con như những kẻ thù.
Con đã không phạm phải nhiều hành động ác, nhưng nhiều người trong thời buổi suy đồi này đối mặt với mối nguy hiểm bị đọa vào cõi địa ngục vì họ nuôi dưỡng thật nhiều cảm xúc tiêu cực và đã làm nhiều việc tai hại trong kiếp sống làm người của họ.
Con sẽ trở về Thế giới Người Sống như một sứ giả của Thế giới Người Chết. Vì vậy, con phải mạnh mẽ và quan sát mọi chuyện xảy ra ở đây thật kỹ lưỡng. Con phải nhớ mọi điều con nhìn thấy và nghe được ở đây, không được quên. Bây giờ chúng ta hãy cùng đến đó”.
Đi qua những cõi địa ngục và thông điệp của Người Chết
Tại góc hướng tây của cánh đồng bao la, Karma thấy một Người Đầu Nai khủng khiếp đang cầm một dây thòng lọng đen. Với đôi mắt lồi mở rộng, ông ta đang đuổi theo một phụ nữ lớn tuổi có vẻ như đang mang nữ trang trên đầu. Karma hỏi Ngài Bạch Y Tara: “Trời ơi! Người Đầu Nai kia là ai? Người đàn bà bí ẩn đó là ai?”.
Ngài Bạch Y Tara nói: “Con đừng sợ Người Đầu Nai đó. Ngài là một trong những biểu hiện của những chư thiên trong cung điện của chính đầu óc con. Những chư thiên có nhiều màu sắc, hình dạng và kích cỡ khác nhau xuất hiện tùy theo bản chất của mỗi người. Người phụ nữ già đó là người ở Chenying thuộc tỉnh Kham. Bà ấy từng là vợ của ông tỉnh trưởng và âm mưu với chồng trong việc ăn trộm, giết người và săn bắn. Đây là nhận thức của bà ấy về quá trình chuyển tiếp. Sau đó, bà ấy sẽ bị xét xử và bị đày xuống địa ngục”.
Kế tiếp, Karma gặp một cây cầu sắt khổng lồ bên trên một con sông rất lớn được gọi là con Sông Vĩ Đại của Luân Hồi. Ở đầu cầu phía đông, có một thành phố ngoài sức tưởng tượng mà cư dân là những người có đời sống tương phản nhau. Một phần dân số – trong đó có tăng, ni và người thường – đều vui vẻ, giàu có và xinh đẹp. Họ sống trong những lâu đài kỳ lạ, được trang hoàng đẹp đẽ. Một số sống sung sướng, ca hát, nhảy múa. Một số khác suốt ngày chỉ biết cầu nguyện và tụng niệm UM MANI PADME HUNG. Một số người đem cho những người khác của bố thí không bao giờ cạn. Hình như không ai có chút sợ hãi hay đau khổ gì cả.
Tuy nhiên, một phần khác của dân chúng lại không có nơi ở và thức ăn. Họ thường xuyên bị đói khát hành hạ. Nhiều người khum bàn tay trên trán như thể đang tìm kiếm một cái gì ở phía chân trời xa. Họ đang khao khát trông chờ bất kỳ một dấu hiệu nào mang lại hy vọng là người thân của họ có thể sẽ hồi hướng công đức cho họ trong lễ tang để cải thiện tương lai của họ.
Đây là nơi nhiều người đã chết chờ đợi trước khi họ bị đem đến xét xử tại toà án của Pháp Vương.
Nhìn những chúng sinh ở nơi này, một Tử thần giải thích cho Karma: “Trong số những người này, nhiều người được vui vẻ vì họ có đời sống trong sạch và biết tôn trọng người khác. Nhiều người đang hát những bài nguyện và lòng tràn đầy hỷ lạc nhờ ở sức mạnh của những trải nghiệm tâm linh của họ trong quá khứ. Các Tử thần thậm chí không dám nhìn họ. Nhiều người có tài sản vô tận và vẫn đang tiếp tục cho và nhận, bởi vì họ đã từng cho những gì họ có khi họ còn ở thế gian.
“Những người khác trong số này đang đau khổ vì đói khát bởi vì họ không giúp đỡ hay tôn trọng người khác hoặc chẳng bao giờ làm từ thiện. Thay vào đó, họ trách mắng, trộm cắp và tấn công người khác trong khi họ còn sống trên thế gian. Họ đang chờ đợi, trông mong, với niềm hy vọng rằng người thân sẽ hồi hướng công đức cho họ. Chẳng bao lâu nữa, họ sẽ bị đưa đến trước toà án của Pháp Vương, ở đó một số sẽ được giải thoát trong khi một số khác sẽ bị đưa đi đến những cõi thấp”.
Kế đó, Karma đến thăm cõi ngạ quỷ. Tất cả chúng sinh ở đây đều trần truồng. Bao tử của họ thì lớn như những thung lũng. Chân tay họ thì ốm như cọng rơm. Cổ của họ thì hẹp như một sợi lông của đuôi ngựa. Vì bị khát nước trầm trọng, từ miệng của họ có những ngọn lửa cháy sáng. Họ đang bị hành hạ bởi những cơn đói không chịu đựng nổi.
Nhìn họ, một Tử thần giải thích cho Karma: “Những người này không bao giờ có lòng rộng lượng trong đời sống. Họ chưa từng cúng dường cho mục đích tôn giáo hoặc bố thí cho những người nghèo khổ. Họ không bao giờ có được một ý tưởng khoan dung, chỉ có lòng tham ái sôi sục, lòng thù hận bừng bừng, đầy kiêu mạn, vô minh tăm tối và lòng ganh tị dữ dội. Họ cản trở người khác cúng dường và bố thí, và họ thậm chí cũng không thể hưởng thụ được việc ăn uống cho chính bản thân mình – tất cả chỉ vì tính keo kiệt của họ”.
Karma nhìn thấy Đức Phật Từ Bi đang đến thăm ngạ quỷ. Những dòng cam lộ đang tuôn ra từ tay Ngài để xoa dịu đau khổ của họ. Nhưng nhiều người trong số đó không những không thọ hưởng được dòng cam lộ mà thậm chí còn không thể nhìn Đức Phật hay trụ lại trước sự hiện diện của Ngài.
Sau đó, tại cổng của một cây cầu, một cô gái có vẻ đẹp quyến rũ lúc thì ca hát và nhảy múa, lúc lại khóc lóc. Ngài Bạch Y Tara hỏi cô: “Này, cô gái xinh đẹp! Con sinh ra ở đâu và gia đình như thế nào? Tại sao con đang ca hát nhảy múa và lại khóc? Con đang đi đâu vậy, đi lên hay đi xuống?”.
Cô gái trả lời: “Than ôi, con là người vùng cao nguyên ở Nam Tây Tạng. Tên thành phố của con là Neudong. Cha con là
Chogyal Tsering và mẹ con là Sechung. Tên con là Dorje Gyalmo. Thung lũng của con bị người Mông Cổ cướp phá và con bị họ ép phải đến xứ Mông Cổ. Con chết vì bệnh nặng. Con đến đây mà không có cơ may nào gặp lại được cha mẹ con. Pháp Vương nói với con: “Con gái ơi, con xuất thân từ một gia đình xuất sắc, có cái tâm trong sáng, và không có bản ngã. Tuy nhiên, con quá bám luyến vào cha mẹ con và của cải của con. Vả lại, con vẫn còn tuổi thọ ở trên thế gian. Vì vậy, con phải trở về để tái sinh làm một manmo trong thung lũng của con”.
Ngài Bạch Y Tara lại hỏi cô ấy: “Sao tâm con lại nhiều bám luyến vậy?”. Cô gái trả lời: “Sau khi con chết, thay vì đem của cải của con để làm việc thiện nhằm tạo công đức, người ta lại đem bán cho một người đàn bà xa lạ. Vì vậy, ngay cả khi con đang ở giữa những hình ảnh khủng khiếp của các Tử thần, con vẫn cứ tiếp tục nghĩ về sự việc đáng buồn đó. Bởi vì sự bám luyến đó, Pháp Vương đã ra lệnh cho con tái sinh làm một manmo”.
Vừa khóc, cô gái vừa van xin Karma chuyển lời nhắn sau đây của cô đến cha mẹ cô: “Con là Dorje Gyalmo. Con bám luyến vào cha mẹ và đồ nữ trang của con. Cha mẹ thân yêu ơi, xin hãy đem tất cả của cải của con cúng dường cho một vị lạt-ma để thực hiện những buổi lễ cúng thanh tịnh hóa và làm hàng trăm lễ cúng dường bánh torma. Xin hãy phục vụ dân làng món bia chang và để họ cầu nguyện. Nếu cha mẹ có thể làm được như thế, con sẽ được tái sinh làm người thay vì tái sinh làm một manmo”.
Trong chuyện kể của mình, Karma không nói đến chuyện đi đến từng cõi địa ngục, nhưng bà đã tận mắt nhìn thấy rất nhiều chúng sinh chịu những sự đau đớn không thể tưởng được. Bà cũng nhận được những lời nhắn của một số chúng sinh trong địa ngục gửi về cho những người thân yêu của họ trên cõi trần.
Bị triệu tập đến tòa án
Rồi Ngài Bạch y Tara dẫn Karma đến cung điện Pháp Vương của các Tử thần. Cung điện này có năm bức tường đồng tâm bao quanh. Mỗi hướng có bốn cổng và mỗi cổng có tám người lính hình tướng dữ tợn đứng canh gác. Những lính canh này có những vũ khí khủng khiếp và đang hét vang: “Hung! Hung! Phat! Phat! Đánh! Đánh! Giết! Giết!”.
Ở phía trước cổng hướng bắc, trên một cái bệ đá lớn, Karma nhìn thấy những đống bộ phận cơ thể. Những bộ phận này đã được cắt ra từng mảnh bởi những bánh xe quay bằng sắt của những vũ khí sắc bén từ trên trời giáng xuống. Chúng cũng đã bị những kẻ hành hình theo lệnh của các Tử thần nghiền nát thành bụi bằng đủ mọi thứ khí cụ. Karma ngã quỵ xuống đất vì vô cùng sợ hãi và buồn rầu. Ngài Bạch y Tara đỡ Karma dậy rồi nói:
Họ đang gánh chịu kết quả những hành động của chính họ.
Dù Đức Phật có đích thân đến đây thì Ngài cũng không thể làm gì được,
Bởi vì họ đang trải nghiệm nghiệp quả của họ.
Con đừng có buồn rầu như vậy.
Lòng quá đau đớn vì bị nỗi ân hận dày vò, Karma suy nghĩ: “Khi mình còn sống ở trần gian mình đã không tu hành nghiêm túc. Không biết bây giờ Pháp Vương của các Tử thần sẽ hỏi mình những câu gì? Những lời kết án nào đang chờ đợi mình đây?”
“Nếu mình có cơ hội trở lại trần gian, mình sẽ giải thích cho mọi người biết sự nghiêm trọng của nghiệp bằng cách kể lại cho họ chính xác những gì mình đã chứng kiến ở đây mà không dấu diếm gì cả. Mình sẽ đem cho người ta những gì mình có mà không luyến tiếc gì cả. Mình sẽ từ bỏ tất cả những hoạt động thế gian và sẽ quán chiếu về bản chất của tâm. Không bám luyến vào bất kỳ ai, mình sẽ đi một mình từ tu viện này qua tu viện khác và sẽ luôn luôn hình dung trong tâm hồn đức thầy của mình.
Mình sẽ không ngừng cầu nguyện Tam Bảo. Mình sẽ không bám luyến bạn bè và người thân”.
Vào lúc đó, Karma nghe một giọng nói vang lên từ cung điện của Pháp Vương. Một lính canh tiến đến gần Karma và Ngài Bạch y Tara rồi nói: “Đó là hiệu lệnh triệu tập các người đến tòa án của Pháp Vương”.
Trái tim của Karma cảm thấy rất đau đớn như thể có một mũi tên đâm xuyên qua. Bà bị dằn vặt vì sự hối tiếc đã chểnh mảng trong việc tu hành theo Chánh pháp. Vừa khóc bà vừa suy nghĩ: “Tuy vậy, mình đã luôn luôn cầu nguyện chư Phật. Vì vậy, xin chư Phật hãy chăm sóc cho con với đôi mắt từ bi của các Ngài”.
Lau nước mắt cho Karma, Ngài Tara nói: “Con không từng làm từ thiện và con cũng không đạt được một kinh nghiệm thiền định vững vàng nào. Nhưng tâm của con như tấm gương trong sáng, không vấy bẩn vì những hành vi xấu xa. Con và ta đã gắn bó với nhau một thời gian dài bởi vì chúng ta có những nghiệp và những ước vọng chung”. Cầm tay Karma, Ngài Bạch y Tara dẫn bà ấy đi qua cổng. Họ leo lên một cầu thang khổng lồ bằng đá. Karma run sợ vô cùng. Rồi họ bước vào một sảnh đường rất lớn. Pháp Vương của các Tử thần ở ngay chính giữa sảnh đường. Karma nhìn thấy Ngài trong thân tướng của Ngài Guru Rinpoche Padmasambhava. Ngự trên chiếc ngai có bốn con sư tử đỡ, Ngài mặc y phục, mang đồ trang sức và tay cầm những pháp khí giống như Karma đã nhìn thấy trong những tranh vẽ. Nhìn thấy Guru Rinpoche, thân và tâm của Karma ngay tức khắc cảm thấy tràn ngập sự sùng kính. Tóc bà dựng đứng cả lên. Những giọt nước mắt sung sướng trào ra. Bà muốn chạy đến và đảnh lễ trước mặt Ngài Guru Rinpoche, nhưng bà kiềm chế lại vì sợ chư thiên nam và nữ phẫn nộ đang đứng chung quanh Ngài.
Những chư thiên phẫn nộ này có hình tướng ghê rợn, trang phục khiếp đảm, và đang vung lên những loại khí giới khủng khiếp. Ở dưới chân Guru Rinpoche, phía bên phải Ngài, có một Tử thần thân người đầu bò. Ông ấy đang cầm một chiếc gương soi, trong đó họ quan sát hành vi của những chúng sinh đang bị đem đến trình diện trước Pháp Vương. Kế bên ông này là Tử thần Đầu Hổ đang cầm những sổ ghi chép những việc các chúng sinh đã làm. Phía bên trái của Guru Rinpoche là Tử thần Đầu Rắn. Ông ta đang kiểm tra những người đang có mặt tại tòa. Trước mặt Guru Rinpoche là Tử thần Đầu Lợn. Ông ta đang giữ những sổ sách và thời gian biểu. Ngoài ra còn có nhiều Tử thần với đầu những thú vật khác, trên tay cầm đủ loại vũ khí.
Ngài Bạch y Tara nhắc nhở Karma: “Nhìn vẻ bên ngoài thì vị ngồi ở chính giữa là Pháp Vương của các Tử thần. Bên trong thì Ngài là Guru Rinpoche. Bên ngoài, vị ở bên phải Guru Rinpoche, đang nhìn chúng ta với đôi mắt lồi ra và đang hét: “Hung! Hung! Phat! Phat!” là một Tử thần. Bên trong, vị ấy là hình tướng phẫn nộ của Ngài Văn Thù (Manjushri), Đức Phật của Trí tuệ. Nếu con mở lòng cầu nguyện đến các Ngài, con sẽ không bị nguy hiểm và sợ hãi. Tất cả các vị Tử thần nam và nữ thanh thản và phẫn nộ là chư Phật thanh thản và phẫn nộ. Nếu con mở lòng cầu nguyện đến các Ngài, con sẽ được tái sinh vào những cảnh giới cao hơn.
Con phải nhớ những điều cốt yếu này. Con đã không làm gì xấu xa nghiêm trọng cả, vì thế con đừng thất vọng. Con hãy đứng dậy và đảnh lễ các Ngài và cầu nguyện cho chính con và cho tất cả chúng sinh”.
Karma đảnh lễ để tỏ lòng tôn kính, nhưng trước khi bà đảnh lễ một lần nữa và cầu nguyện thì Tử thần Đầu Rắn ngăn bà lại. Ông ta ra dấu cho bà ngồi xuống một góc. Ngay khi bà vừa ngồi xuống, Pháp Vương bằng giọng quát tháo nói với các Tử thần đang đứng ngoài sân cung điện: “Một người chết từ trần gian xuống sẽ đến đây. Hãy đem người ấy vào đây ngay”. Ở trong sân cung điện, nhiều vị thần đang cầm trên tay đủ loại khí cụ đứng dậy và gầm lên: “Hung! Hung! Phat! Phat!”
Ngay lúc đó, một phụ nữ xuất hiện trong sân. Trước quang cảnh ghê rợn này, lúc đầu bà cố gắng bỏ chạy, nhưng không thể thoát được. Rồi bà vung cây gậy OM MANI PADME HUNG và hát Bài Chú Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn. Ngay khi các Tử thần nghe âm thanh của thần chú sáu âm thiêng liêng, họ đều bình tĩnh ổn định lại chỗ cũ. Người phụ nữ có một phu nhân mặc áo trắng đi theo cùng. Tóc của Ngài cột búi lại bằng một dải lụa màu đỏ. Ngài cầm trong tay một tràng hạt pha lê. Nắm lấy cánh tay người phụ nữ, vị phu nhân mặc áo trắng dẫn bà ấy vào trong cung điện. Bà ta đã được tự do. Dường như không một Tử thần nào có quyền năng giữ bà lại hoặc đe dọa bà. Khi người ta kiểm tra về bà, người ta thấy bà là người đáng được trân trọng vì đã làm nhiều việc thiện lành như là cầu nguyện Đức Phật Từ Bi. Tuy vậy, bà cũng mang trong lòng nhiều oán giận đối với những hệ thống quan liêu bất công của xã hội. Vì vậy, bà sẽ phải tái sinh làm chim trước rồi sau mới được làm người.
Kế đó, Karma nghe một tiếng nói rất lớn. Bà nhìn về hướng có tiếng nói phát ra và bà nhìn thấy một vị sư đội nón. Vị sư ấy nói với Karma: “Bây giờ ngươi đã hiểu những hậu quả của nghiệp. Ngươi đã thấy mặt Pháp Vương. Ngươi đã chứng kiến những sự đe dọa của các Tử thần. Ngươi phải ghi tâm khắc cốt về những điều không thể tránh khỏi của nghiệp quả và những lời chỉ dạy của Pháp Vương. Bây giờ ngươi phải trở lại trần gian. Gia đình của ngươi sắp đem xác ngươi đi thiêu rồi đó”. Nói xong, vị sư biến mất trong một cơn gió thoảng qua.
Rồi Ngài Bạch y Tara khẩn khoản nói với Pháp Vương:
Pháp Vương, xin hãy nghe con nói!
Tâm của Karma đã thức tỉnh hướng về Chánh pháp.
Nhờ có những nối kết về nghiệp rất tốt đẹp, bà ấy đã nhìn thấy Ngài như là Guru Rinpoche.
Thân xác và tâm thức của bà đã rời nhau trước khi thọ mạng của bà chấm dứt.
Vì những bám luyến của mình nên bà ấy phải chịu đựng những trải nghiệm chuyển tiếp này.
Bà đã đến với Pháp Vương vì những nguyện ước trong quá khứ.
Bà đã chứng kiến sự sợ hãi những Tử thần, chân lý về nghiệp quả.
Bà ấy đã trải qua bảy ngày ở nơi đây, và
Ngôi nhà trống của bà – giống như xác chết đang phân hủy [trong cõi người].
Vì thế, bà ấy nên được đưa trở lại với dân chúng ở lục địa Jambu như một sứ giả của Ngài.
Hoặc là nên cho bà ấy tái sinh trở lại làm người.
Hoặc là nên đưa bà ấy đến những tầng bậc của những thiện trí thức
Thưa Pháp Vương, bà ấy nên đi đâu? Xin Ngài hãy ban lệnh.
Pháp Vương nhìn Karma chằm chằm, và đắn đo suy nghĩ một lúc lâu. Rồi Ngài nhìn vào cái gương soi để kiểm tra những chi tiết về những hành vi quá khứ của Karma và nói: “Trong quá khứ, Lingza Chokyi đã trở lại trần gian vì các Tử thần đã nhầm lẫn tên tuổi và bộ tộc của bà ta khi đem bà đến đây. Rồi hai cô gái, Samten quê ở Darsedo và Yungtrung Wangmo quê ở Kham đã được cho trở lại trần gian. Samten đã được trở về với những lời chỉ dẫn nghiêm ngặt là cô ấy phải lo tu hành theo Chánh pháp, không được làm những hành động xấu xa. Yungtrung cũng được trở về để có thể tu hành và nhận chân được bản chất của tâm”.
Kế đó, Pháp Vương nói: “Bây giờ ngươi sẽ trở về cõi Diêmphù-đề để tạo niềm tin cho dân chúng đến với Chánh pháp và cũng để mang những lời nhắn của các chúng sinh trong Thế giới Người Chết về cho những người thân yêu của họ trong Thế giới Người Sống. Vì những phước đức và ước nguyện của ngươi trong quá khứ, ngươi sẽ thành tựu được những lợi lạc lớn lao khi trở lại thân xác của mình” .
Pháp Vương ban cho Karma những lời hướng dẫn và những lời tiên tri rất chi tiết cùng với những thông điệp sau đây cho dân chúng ở cõi Jambu:
Hãy nói với mọi người rằng ta ở đây là Pháp Vương.
Hãy cho họ biết rằng chúng ta có những cách tinh vi
Để biết được mọi người đã làm những hành vi xấu xa hay thiện lành.
Hãy nói cho họ biết rằng những ai sùng mộ Chánh pháp sẽ đi lên những cảnh giới cao hơn.
Hãy nói cho họ biết rằng những ai theo đuổi những hành vi xấu xa sẽ đi xuống những cảnh giới địa ngục.
Các người, dân chúng của cõi Jambu,
Phải theo những lời dạy của Đức Phật (Thích Ca Mâu Ni) Và đặc biệt phải tuân theo những mệnh lệnh này của ta:
Bên ngoài, ta là Pháp Vương [của các Tử thần]; Bên trong, ta là Quán Thế Âm, Đức Phật Từ Bi.
Hãy tụng niệm OM MANI PADME HUNG của Quán Thế Âm.
Bên ngoài, ta là Pháp Vương;
Bên trong, ta là Guru Rinpoche.
Hãy tụng niệm OM AH HUNG VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUNG.
Bên ngoài ta là Pháp Vương:
Bên trong ta là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Hãy học tập giáo lý của Đức Phật.
Hãy luôn luôn làm cho tâm mình được mạnh mẽ trong những hành động thiện lành.
Hãy từ bỏ ngay tức khắc những hành động xấu xa dù nhỏ nhặt nhất.
Hãy tưởng tượng các ngươi luôn có vị lạt-ma trên đỉnh đầu mình.
Hãy cúng dường những việc lớn lao đến mọi chúng sinh.
Bây giờ [ở nhà của ngươi] đã đến giờ ngọ.
Hãy nghĩ đến nhà mình với những ước nguyện trong sáng.
Nghe vậy, nhiều người chết đã bị những kẻ hành quyết đưa đến trước tòa án của Pháp Vương liền nài nỉ Karma: “Người may mắn ơi, nếu bà sắp trở lại trần gian thì xin cho tôi gửi lời nhắn đến những người thân yêu của tôi. Xin bà yêu cầu họ hãy vì tôi mà làm những việc hoàn toàn thiện lành và cúng dường Tam Bảo. Để xoa dịu những nỗi đau khổ trong cảnh giới địa ngục thì không có lời cầu nguyện nào hiệu quả hơn là OM MANI PADME HUNG. Vì vậy xin bà hãy tụng niệm và yêu cầu những người khác tụng niệm OM MANI PADME HUNG hàng chục ngàn lần. Xin hãy khắc trên những hòn đá câu chú này và chất chồng chúng lên. Xin hãy in câu chú này trên vải và treo lên cao như treo cờ. Hãy in câu chú trên những mảnh giấy và quay những mảnh giấy như những bánh xe cầu nguyện”.
Karma trở lại thân xác mình
Rồi trong đầu Karma nảy sinh ra ý nghĩ: “Bây giờ mình nên trở về thung lũng của mình”. Ngay tức khắc, bà thấy mình đang ở Traphu, quê nhà của bà.
Ở ngay lối đi vào nhà mình, bà nhìn thấy xác của một con chó già. Đôi mắt của nó đã hõm sâu xuống và nước dãi đóng quanh mõm. Karma vừa sợ vừa ghê tởm: Đầu tiên bà bỏ chạy tránh xa xác con chó, nhưng rồi bà suy nghĩ: “Mình có thể vào nhà bằng cách bước qua xác con chó”. Khi bà bước ngang qua xác con chó, tâm bà tức khắc nhập vào thân bà và bị kẹt lại trong đó. Bà đã nhìn thấy thi hài của mình như xác một con chó chết.
Trước tiên bà ngất đi, giống như bóng tối lúc hoàng hôn. Một lát sau bà từ từ tỉnh lại, nhưng bà không cử động được vì trong thân bà không còn sót lại chút sức lực nào cả. Trí nhớ của bà từ từ trở nên rõ ràng hơn một chút. Khi bà cử động nhẹ, người ngồi bên cạnh bà và canh xác bà nhìn thấy cử động đó. Ông ấy cuống quít la to tiếng PHAT! ba lần. Bà đang còn bị ám ảnh bởi những hình ảnh và những cảm giác đau khổ trong các cõi địa ngục, nhưng tiếng PHAT! đã làm những hình ảnh và cảm giác đó biến mất. Miếng vải phủ trên mặt bà phồng lên một chút. Người đó tự hỏi: “Có phải một ma lực đã nhập vào xác của Karma và biến bà thành một con quỷ nhập tràng rồi chăng?” Ông ta lật miếng vải che mặt ra và nhấn vào đầu bà nhiều lần. Rồi ông ta nhấn vào hai bàn tay bà, nhưng bà không có sức để nhấn vào bàn tay ông hay là nói bà còn sống. Sau đó, người đàn ông kiểm tra ngực của bà và thấy rằng tim bà có hơi ấm. Ông ta gọi to những người trong gia đình bà: “Mọi người hãy lại đây! Phu nhân đã sống lại rồi!”.
Mẹ của Karma vừa đi đến vừa khóc. Bà cứ nói đi nói lại, “Con gái của ta, con sống lại rồi à?”. Mọi người nhanh chóng cởi tấm vải quấn quanh thân xác Karma ra. Lúc đó chồng của bà đến. Ông ra lệnh cho người ta di chuyển vợ mình đến một chỗ khác, đem sữa và mật ong cho bà uống. Tuy nhiên, trong suốt một tuần lễ, Karma không ăn được và thậm chí nhấp một chút nước gì cũng không được. Họ phải đổ vào miệng bà một chút thức ăn lỏng. Dần dần bà mới lấy lại được sức lực và sắc diện hồng hào trở lại.
Sau đó, Karma và gia đình bà thuê hai người ghi chép. Họ dự định ghi chép lại và chia ra làm hai phần tất cả những lời nhắn mà những người đã chết nhờ Karma nhắn lại cho những người thân yêu của họ. Trong phần đầu, họ sẽ bao gồm những lời nhắn gửi đến những người thân yêu ở các tỉnh miền Trung, miền Tây và miền Nam Tây Tạng. Trong phần thứ hai, họ ghi lại lời nhắn gửi đến những người thân yêu ở các tỉnh ở Mông Cổ và Mon. Karma cũng dự tính đích thân đi khắp xứ để truyền đạt lại cho công chúng những thông điệp của Pháp Vương.
Nhưng chẳng may, bà mẹ của Choje’i Trung, một phụ nữ quý tộc có thế lực, nói rằng: “Karma thuộc tầng lớp thấp kém trong xã hội. Bà ấy từ cõi chết trở về để cướp đi mạng sống của người ta”. Những người khác nghe theo bà ấy và nói: “Bà ta là một con quỷ”. Thay vì tin tưởng Karma, người ta quay sang tấn công bà.
Biết được như vậy, ông tộc trưởng nói: “Tốt hơn chúng ta nên giữ bí mật mọi chuyện một thời gian”, và họ đã giữ kín mọi chuyện.
Một thời gian sau, Karma đi học giáo lý với một vị lạt-ma nổi tiếng tên là Ponlob Jetrung Rinpoche. Ông ta rất ngạc nhiên trước tiến bộ về thiền định của Karma và nhận xét: “Có được nhận thức như vậy không phải là chuyện dễ dàng, ngay cả đối với những người nghiên cứu học tập đã lâu”. Nghe vậy, một người theo hầu của Karma đã vô ý nói với vị lạt-ma rằng: “Lẽ dĩ nhiên, vì bà ấy đã từ Thế giới của những Người Chết trở về nên bà dễ dàng nhận thức được bản chất tối hậu”.
Ngài lạt-ma trả lời: “Ta cũng đã từng đến Thế giới của những Người Chết – ba lần. Chúng ta nên so sánh những điều ghi chép để xem những trải nghiệm của chúng ta có giống nhau hay không. Phu nhân, xin bà vui lòng kể cho chúng tôi nghe những trải nghiệm của bà”.
Karma bắt đầu kể cho vị lạt-ma nghe những trải nghiệm của mình. Rồi những người đến đây để học giáo lý, lần lượt hết người này đến người khác, cũng tiến đến gần để nghe nữa. Cả vị lạt-ma lẫn những người này đều khóc khi nghe những chuyện Karma kể. Suốt cả một ngày, thay vì học giáo lý như thường lệ với vị lạt-ma, mọi người chỉ lắng nghe Karma kể chuyện mà thôi.
Hoàn toàn tin những điều Karma kể, vị lạt-ma nói: “Chuyện kể của bà là hoàn toàn đáng tin. Bà cứ ở tại thung lũng này thì uổng phí quá. Bà phải đi khắp nước để làm việc có ích cho mọi người. Ta sẽ cung cấp cho bà phương tiên đi lại, người theo hầu và lương thực. Bà phải đi khắp nước mới được!”.
Tuy nhiên, như chúng ta đã biết, Karma chủ yếu ở với mẹ của bà. Trước đây khi bà đến trước mặt Pháp Vương, bà quá sợ hãi các Tử thần đến nỗi trong lúc vội vã bà đã cầu đạt được Phật quả cho chính mình mà thôi và không chú tâm cầu nguyện cho lợi lạc của tất cả mọi chúng sinh. Hơn nữa, bà lại quá bám luyến với mẹ của bà. Vì hai lý do này, bà không làm được điều gì lớn lao trong việc giúp đỡ những người khác.
KHÔNG SỢ HÃI KẺ THÙ:
TRẢI NGHIỆM CỦA DENMA SANGYE-GE
Điều rất đáng chú ý trong chuyện kể về những trải nghiệm sau khi chết của Denma Sangye Seng-ge là những ý tưởng về thể cách mà chúng ta có thể làm nhẹ bớt những nỗi sợ hãi, những ảo tưởng của chúng ta và nhớ trụ lại trong trạng thái thiền định.
Denma kể lại rằng sau khi thoát ra khỏi thân xác, ông ta đi khắp vũ trụ chỉ trong giây lát. Ông ta cảm thấy như mình nhìn thấy được tất cả những sự kiện trong quá khứ, hiện tại và tương lai cùng một lúc. Hình như ông ta có một cái thân ánh sáng và có thể đi đây đi đó bằng ánh sáng của thân mình. Ông ta cảm thấy mình được bao bọc trong những tia sáng của ánh sáng ngũ sắc. Ông di chuyển với tốc độ ánh sáng và có thể đến bất cứ nơi nào ông muốn một cách hết sức dễ dàng. Ông nắm lấy một chùm tia sáng ngũ sắc xuất hiện trước mắt ông và la to HIK bảy lần. Ông bay cao lên bầu trời. Ông thấy mình ở trong cõi tịnh độ tối hậu của Đức Phật, gọi là Thiên giới Cực lạc Vô song. Ở đó, ông trông thấy một cảnh tượng tuyệt vời với một tòa lâu đài quý báu trong đó có rất nhiều những vị thiện trí thức đã giác ngộ. Đó là cõi tịnh độ hỷ lạc. Denma được một người hướng dẫn, là một vị lạt-ma, đón ông ta ở đó. Vị lạt-ma nói:
Này con trai, con đã không bị nghiệp chướng trong bảy đời rồi.
Con là người may mắn, chớ xao nhãng.
Hãy nhìn vào bản chất của tính giác tuyệt đối.
Trong một thoáng, Denma trông thấy được Ngũ Bộ Như Lai Phật và những cõi tịnh độ của các Ngài. Tiếp sau đó, ông lại trông thấy được năm vị Phật hiện ra như là Pháp Vương và các Tử thần.
Ông cứ liên tục rơi vào những ảo tưởng. Có một lúc ông nhìn thấy những người trong làng của ông và ông không biết chắc mình đã chết hay chưa. Ông nhìn thấy một cái tháp bằng pha lê; nhưng thật ra đó là thân xác ông ta bị những con ếch nhái che phủ. Nhiều người vừa đi quanh cái tháp pha lê vừa khóc. Bởi vì họ đau buồn và khóc lóc như vậy nên ông cảm thấy những trận bão tuyết máu và mủ rơi xuống trên người ông.
Denma nhìn thấy hai bộ vòng tròn có những quả cầu (Tây Tạng: thig-le), mỗi bộ có năm vòng, mỗi vòng được làm bằng ánh sáng có màu sắc khác nhau. Một bộ gồm có năm vòng tròn lớn, bộ kia có năm vòng tròn nhỏ. Chúng là ngũ trí nguyên thủy, những thật tính đã nhận thức được của ngũ tình.
Ngay sau đó, Denma cố gắng tìm hiểu xem mình thật sự đã chết chưa. Cuối cùng thì ông đi đến kết luận là mình chết rồi nhờ thấy những dấu hiệu sau đây: Ông có thể đi qua lỗ của cái kim khâu và qua những lỗ nhỏ trong cái lều vải. Những bước đi của ông không để lại dấu chân trên cát bên bờ sông. Thân ông không có hình phản chiếu dưới mặt nước và không có cái bóng nào khi ông đứng dưới ánh nắng hoặc ánh trăng. Mặc dù ông đói nhưng không ai quan tâm đến chuyện cho ông ăn cả. Ông đến gần những người thân yêu và gọi tên họ nhưng không ai đáp lại. Khi ông nhìn vào mặt người ta, mặt họ có vẻ như bị che bởi một tấm màn mỏng mờ ảo. Ông thấy mẹ ông cứ khóc mãi và điều đó là không bình thường đối với tính cách của bà và bà đang nói: “Bây giờ tôi mong chết cho rồi”.
Biết được mình chết rồi, Denma buồn rầu và sợ hãi cầu nguyện Đức Phật Từ Bi. Ngài tức khắc hiện ra trước mặt ông, ban phước và cho ông những lời dạy rất chi tiết.
Tuy vậy, tâm của Denma trở nên rối bời vì những ảo tưởng trần tục và ông gặp thêm nhiều chướng ngại trên cuộc hành trình của mình. Ông cảm thấy mình bị sức mạnh của một cơn bão nghiệp đẩy đi. Ông nghe những tiếng gầm rú của những con dã thú giận dữ. Nhưng cuối cùng ông đã có thể nhớ lại rằng tất cả những sự việc này là năng lực biểu hiện của tính không.
Kế đó, ông nhìn thấy những ánh sáng trắng và đỏ chặn lối đi của ông. Một trận mưa vũ khí đến sau lưng ông. Khi ông nhớ lại đây chỉ là những ảo giác thì chúng trở thành năng lực tự thân của giác tính nội tại của ông.
Tiếp theo, ông thấy mình đang đi theo một con đường đèo cao, hẹp và dốc, có những tảng đá màu đỏ. Con đường này cứ kéo dài mãi ra vô tận. Ở bên dưới ông nhìn thấy một con sông hung dữ đang cuốn đi những tảng đá. Ông đi dọc con đường đèo và thỉnh thoảng phải bám vào những búi cỏ. Nhiều người đã rơi xuống sông và ông có thể nghe tiếng họ kêu khóc. Rồi cũng như những lần trước, khi ông nghĩ đến tính không của mọi sự việc thì tất cả những hiện tướng dễ sợ này đều trở lại an bình.
Kế đó, ông cảm thấy ông bị kẹt trong một vùng đất tối đen, đầy những dã thú. Ông nghe giọng nói: “Đừng hoảng sợ! Đây là cảnh giới súc vật”. Ông tung OM MANI PADME HUNG. Ḅ ỗng nhiên, không gian tràn ngập đông đảo các vị Phật và lạt-ma chào mừng ông. Hình như khắp nơi đều rung động với âm thanh cầu nguyện.
Sau đó, ông cảm thấy lưu luyến bạn bè và của cải trên trần gian. Ngay lúc đó ông nghe tiếng nói của Đức Phật Từ Bi: “Đây là lúc chết. Không bạn bè hay của cải có thể giúp con được nữa.
Đây là những biểu lộ của tính không. Con hãy nhìn vào tính không mà đừng để tâm con bị xao nhãng”. Khi nghe những lời này, mọi bám luyến của ông đều biến mất.
Lại một lần nữa, ông cảm thấy đang đi trên một lối đi bằng đá hẹp đầy nước, lửa và gió bão dữ dội. Ông lên đến tận đỉnh lối đi nhưng vì những cơn bão tuyết nên ông không tiến lên được mà rút lui cũng không được. Ông đi vào một ngôi đền ở đó ông nhìn thấy nhiều người, có cả những người ông quen biết hồi còn sống. Một số đang sung sướng hưởng thụ cuộc sống, một số khác lại đang đói khát và đau khổ. Một số đang ca hát trong lúc một số khác đang khóc lóc. Do bị các sứ giả của những Tử thần mang nhầm từ dương gian xuống đây nên họ phải chờ cho đến khi thọ mạng của họ hết thì họ mới có thể tái sinh. Một số khác đã đến sớm vì đời sống của họ bị cắt ngắn do bị tai nạn bất ngờ. Nhiều người cũng đang nán lại hay bị kẹt ở đây, thay vì đi đầu thai vào kiếp khác vì họ còn lưu luyến kiếp người của họ. Những người giàu có đang nán lại ở đây vì họ còn lưu luyến tài sản. Những người đang yêu đương nán lại ở đây vì họ lưu luyến những người tình. Những người cầm quyền nán lại ở đây vì họ còn lưu luyến luật và lệnh mà họ đã ban hành. Những người nghèo khổ đang nán lại ở đây vì họ còn lưu luyến những túp lều và những cái bát ăn xin của họ. Những người sân hận đang nán lại ở đây vì họ còn muốn trả thù những kẻ thù của mình. Nhiều người khác đang chờ ở đây để cho bà con và bạn bè của họ trên trần gian tạo phước đức và hồi hướng cho họ trong những lễ cúng cho người chết để cải thiện cuộc hành trình hướng đến tái sinh của họ. Đó là những người không có thiện nghiệp hay ác nghiệp đủ mạnh để nhanh chóng đẩy họ đến nơi họ phải đến.
Rồi Denma cảm thấy mình đang đi đến tận đỉnh cái Đèo Cát của những Người Chết. Cái đèo này được trang trí bằng những đống sọ người và sọ thú vật. Ông nghe những giọng nói đầy căm thù phát ra từ tất cả những cái sọ này. Từ nơi đây, ông trông thấy Cánh Đồng của những Người Chết mênh mông và khủng khiếp. Rồi ông cảm thấy ông đã rời bỏ Thế giới của Người Sống. Ông cảm thấy choáng váng và đau đớn vô cùng, sợ hãi và buồn rầu giống như là tim và phổi của ông đã rơi xuống đất. Lại một lần nữa ông nghe một giọng nói từ xa vọng lại: “Hãy nhìn vào thật tính, đừng xao nhãng”.
Kế đó, Denma cảm thấy mình đang đi vào Cánh Đồng Sặc Sỡ của những Người Chết, một cánh đồng cát với những cơn bão cát rất mạnh thổi qua. Cánh đồng chứa đầy những hình ảnh và âm thanh khủng khiếp của khổ đau. Phía trước, ông nhìn thấy con đường ánh sáng nhiều màu sắc khác nhau. Đằng sau, ông cảm thấy như mình đang bị cơn bão nghiệp đẩy về phía trước. Bên phải, ông thấy bóng tối. Bên trái, ông thấy ánh sáng trăng trắng. Ông lại nghe giọng nói của Đức Phật Từ Bi: “Đây là Cánh Đồng Sặc Sỡ của những Người Chết. Chúng sinh ở đây đang chịu đau khổ vì tội trộm cướp”.
Sau đó, ông cảm thấy ông đang đi qua Con Sông Đỏ Khiếp Đảm của những Người Chết đang chảy nhanh với những cơn sóng sấm chớp. Con sông có sáu cây cầu kinh hoàng. Có rất đông chúng sinh hai bên sông. Họ đang bị các Tử thần điều khiển và trong tay họ có đủ mọi loại vũ khí. Một lần nữa ông lại nghe giọng nói của Đức Phật Từ Bi: “Này, con trai, hãy quán chiếu về bản chất của tâm không xao nhãng”. Tức thì ông bay qua phía bên kia sông như một con đại bàng.
Ở đây Denma nhìn thấy thân Awa ̀ Đầu Bò, một trong những phụ tá chính của Pháp Vương của các Tử thần. Ngài đang ngồi trên một cái ngai làm bằng sọ người và so thú ṿ ật ở giữa rất nhiều những kẻ hành hình. Họ có thân người và đầu của nhiều loại thú vật. Có rất đông chúng sinh ở chung quanh. Nhiều chúng sinh khiếp sợ và khóc la hoặc là đang bị tra tấn. Những người khác đang vui vẻ và di chuyển bằng những phương tiện kỳ diệu.
Cuối cùng Denma đi đến một cung điện xây bằng những vật liệu quý nằm giữa một vùng hào quang trong đó nhiều chư thiên xuất hiện. Ông nghe được âm nhạc do rất đông chư thiên trình diễn. Pháp Vương của các Tử thần đang ngồi trên cái ngai do một con voi, một con ngựa, một con công và một con shangshang đỡ. Pháp Vương có bốn đầu và bốn tay. Ngài mặc trang phục của Báo thân. Ngài đang cầm một cái gương soi và những sổ ghi chép trong hai bàn tay trên. Hai bàn tay dưới của Ngài trong tư thế thiền định đang cầm Bánh xe của các Hiện thể.
Chung quanh Ngài có nhiều Tử thần thân người đầu thú.
Pháp Vương hỏi Denma về cuộc sống và những hành động của ông. Trình bày ngắn gọn về mình xong, ông hát bài ca về vô úy:
OM MANI PADME HUNG!
Ta là một đạo nhân đã ý thức được đầy đủ trạng thái bất nhị.
Ta không sợ kẻ thù, là sự bám chấp nhị nguyên.
Ta là một đạo nhân đã ý thức được bản chất tối hậu vô biên.
Không sợ hãi kẻ thù, là những vũ khí khởi sinh từ hư vô.
Ta là một đạo nhân đã thể chứng trí tuệ thành tựu tự nhiên.
Không sợ hãi kẻ thù, là những Tử thần do năm thứ độc dược cảm xúc của ta tạo ra.
Ta là một đạo nhân đã không còn bị ràng buộc bởi lòng đam mê hy vọng và hoài nghi.
Không sợ hãi kẻ thù, không phải kẻ thù là những Tử thần. Ta là một đạo nhân đã thể chứng thực tính.
Không sợ hãi kẻ thù, là những hiện tượng hão huyền trong trung ấm.
Hát đến đây, Denma bị Awa Đầu Bò dùng gươm chém vào người. Nhưng thanh gươm xuyên qua người Denma mà không gây thương tích gì cả, như thể là nó đã chém vào khoảng không. Lấy làm ngạc nhiên, các Tử thần ca ngợi Denma: “Ha! Ha!”.
Rồi Pháp Vương cũng khen ngợi Denma: “Con người tuyệt vời này đang nói sự thật”.
Rồi Denma đi qua nhiều cảnh địa ngục khác nhau để làm vơi bớt khô ̉ đau ở đấy và sau đó trở về lại thân xác của mình để mang lại những thông điệp cho những người ở dương gian.
NHỮNG CHUYẾN ĐI THĂM 18 TẦNG ĐỊA NGỤC:
TRẢI NGHIỆM CỦA TAGLA KONCHOG GYALTSEN
Khi Tagla Konchog Gyaltsen rời bỏ thân xác, ông nhìn thấy toàn bộ không gian phía tây bị bao phủ bởi những đám mây màu đo đỏ. Vị Bạch y Hộ thần nói: “Đó không phải là những đám mây. Đó là cơn bão của Đèo Sa Mạc Đỏ phân chia Thế giới Người Sống với Thế giới Người Chết. Con có thể đi ngang qua đó dễ dàng bằng sức mạnh tâm linh của chính con”. Tagla cầu khẩn sức mạnh phù hộ của chư Phật và các vị thầy để có thể dễ dàng đi qua đường đèo đó. Ngay tức khắc, một tấm thảm ánh sáng trắng từ hướng Nam trải dài về phía ông. Trên tấm thảm đó ông nhìn thấy Đức Phật Từ Bi và Guru Rinpoche trong hình tướng phẫn nộ với rất đông chư thiên. Vị Guru Phẫn nộ dùng một lá cờ cầu nguyện khổng lồ đánh vào cái đèo ba lần, khiến nó sập xuống vỡ tan tành.
Một lần nữa, Tagla nhìn thấy những ngọn lửa che phủ bầu trời. Mặt đất thì ngập tràn máu và kim loại nóng chảy. Vị Bạch y Hô thậ n ̀ nói: “Đây là con Sông Nâu Khổng Lồ Không Thể Qua Được của Người Chết. Con hãy cầu nguyện các chư thiên bảo vệ”. Tagla cầu khẩn các chư thiên bảo vệ và các vị thầy. Bỗng nhiên ông nghe một tiếng sấm thật lớn từ hướng nam. Ở đó ông nhìn thấy Đức Phật Từ Bi – chói sáng như một ngọn núi tuyết với ánh sáng của hàng ngàn mặt trời chiếu vào. Ngài ở giữa một vầng hào quang bảy sắc cầu vồng với một cơn mưa hoa nhiều màu sắc. Tagla thấy mình ở trong một chiếc thuyền ánh sáng và đi cùng với ông có rất nhiều người trẻ tuổi tay cầm những lá cờ cầu nguyện và tụng: “OM MANI PADME HUNG”. Ngay lúc đó, ông vui vẻ băng qua con sông cùng với họ. Tagla cảm thấy rằng Đức Phật Từ Bi, Guru Rinpoche, những tràng phan và những vị lạt-ma, tất cả chỉ là một bất khả phân. Chứng kiến những quyền năng diệu kỳ như vậy, thân tâm Tagla ngập tràn lòng sùng kính vô hạn.
Một lần nữa, Tagla bị nghiệp lực của mình đẩy đi tiếp đến một cánh đồng mênh mông bị một màn tối dày đặc bao phủ. Màn tối này bị ngắt quãng bởi những ánh chớp với những tia sáng màu đỏ. Đây là Cánh Đồng Xám Mênh Mông của những Người Chết. Theo lời khuyên của Bạch y Hộ thần, Tagla dâng những lời cầu nguyện và việc cầu nguyện này đã giúp ông có thể băng qua cánh đồng một cách dễ dàng. Ông thấy có một vị đạo sư khổ hạnh đi đến; đi theo cùng vị này có nhiều vị tăng và các vị tu khổ hạnh tay cầm các tràng phan khổng lồ và đang ca: “OM MANI PADME HUNG”. Đi theo các vị này, Tagla đã băng qua cánh đồng chỉ trong khoảnh khắc.
Kế đó, Tagla thấy mình đang đứng bên ngoài bức tường kỳ lạ khổng lồ của những cõi địa ngục. Tagla thấy Ngài Pema Dechen xuất hiện trước mặt mình, Ngài là giáo thọ chính của ông, đi cùng với nhiều vị thầy trong hình tướng những vị tăng và những người tu khổ hạnh. Họ đang quay những bánh xe cầu nguyện bằng tay phải và tay trái họ cầm những tràng phan khổng lồ. Cả Bạch y Hộ thần và Quỷ Đen Tối đều đã biến mất.
Ngài Pema Dechen nói với Tagla: “Con phải nhìn thấy những cõi địa ngục để khi trở lại với Thế giới Người Sống, con có thể miêu tả những cảnh giới đó cho mọi người biết. Người ta sẽ nhờ đó mà hiểu biết và tin ở sự hiện hữu của những cõi địa ngục và nó sẽ tạo cho người ta niềm tin để đi theo Chánh pháp. Tuy nhiên, con sẽ không thể một mình đi xuống các cõi địa ngục nên phải nhờ vào uy lực của ta. Con hãy cầu nguyện Đức Phật Từ Bi và đi theo ta”.
Được thầy mình hướng dẫn, Tagla đã đi thăm 18 cõi địa ngục khác nhau. Trong mỗi cõi rất nhiều chúng sinh đang bị hành hạ vì mọi thứ đau khổ. Những thứ đau khổ này là kết quả của những cảm xúc tiêu cực và những hành vi tai hại mà họ đã phạm phải trong cuộc đời họ.
Trong số 18 địa ngục, tám địa ngục đầu tiên là địa ngục nóng:
1. Trong địa ngục hồi sinh, trên một cái nền bằng kim loại nóng bỏng, chúng sinh không ngừng giết nhau vì tức giận rồi lại hồi sinh và chịu đựng bất tận như vậy.
2. Trong địa ngục đường vạch đen, trên những cái nền nóng bỏng, những kẻ hành hình vẽ những đường vạch trên thân thể chúng sinh rồi liên tục dùng những cái cưa nóng bỏng mà cưa họ ra thành từng mảnh.
3. Trong địa ngục xay nghiền, chúng sinh bị quăng vào trong những cái cối khổng lồ làm bằng sắt nóng bỏng và liên tục bị những cái búa bỏng cháy nghiền nát.
4. Trong địa ngục gào thét, chúng sinh bị nướng trong những căn nhà bằng kim loại bỏng cháy, la hét khóc lóc không ngừng.
5. Trong đại địa ngục gào thét, chúng sinh bị nhốt trong hai lớp tường đang cháy, liên tục kêu la đau đớn vô cùng.
6. Trong địa ngục hun nóng, chúng sinh bị nấu trong đồng nóng chảy.
7. Trong địa ngục hun nóng mãnh liệt, chúng sinh trong những căn nhà bằng kim loại nóng bỏng bị đâm bằng những chĩa ba bỏng cháy và bị cuốn lại trong những tấm kim loại bỏng cháy.
8. Trong địa ngục đau khổ tột cùng, chúng sinh bị đốt trong một ngọn núi sắt đang cháy, và bị đổ đồng nóng chảy vào miệng. Người ta chỉ có thể nghe tiếng kêu la đau đớn vì không thể nhìn thấy họ giữa những ngọn lửa đỏ rực.
Rồi còn tám địa ngục lạnh giá mà tên của chúng gợi lên những cách thức khủng khiếp mà chúng sinh trần truồng trong đó phải chịu đựng: (1) địa ngục lạnh phồng rộp da, (2) địa ngục lạnh phồng vỡ da, (3) địa ngục lạnh run lập cập, (4) địa ngục than khóc, (5) địa ngục kêu la, (6) địa ngục những vết rạn nứt giống như hoa uptala trên thân chúng sinh , (7) địa ngục những vết rạn nứt giống như hoa sen, (8) địa ngục những vết rạn nứt khổng lồ giống như hoa sen.
Cũng còn có hai địa ngục phụ: (1) trong những địa ngục lân cận, chúng sinh ngã vào trong những cái hố than hồng hay những đầm lầy dơ bẩn, đi bộ qua những cánh đồng lưỡi dao hay những khu rừng gươm, bị đâm bằng những vũ khí bén nhọn của Ngọn Đồi Cây Sắt và bị chim kền kền, những người đàn ông hoặc đàn bà ăn thịt. (2) trong địa ngục phù du, chúng sinh bị sinh vào đó, bị kẹt vào những nơi và những vật khác nhau như những tảng đá, những bức tường, những cột đá và ngay cả trong những đồ đạc trong nhà suốt những khoảng thời gian rất dài.
Trong mỗi cõi địa ngục, nhờ trí tuệ của mình, Pema Dechen nhìn thấy được nguyên nhân những đau khổ của mỗi chúng sinh và giải thích những nguyên nhân đó cho Tagla biết. Ngài cũng giải thích rõ mỗi chúng sinh phải chịu đau khổ bao lâu và những nỗ lực gì có́ thể giúp được họ. Cho đến khi những nghiệp tiêu cực khiến họ phải sống trong địa ngục đã hết, những chúng sinh đau khổ ở đó sẽ không chết vì đau đớn, bởi đau khổ là một phần của đời sống chúng sinh trong địa ngục chứ không phải là kết thúc của đời sống đó.
Nhờ vào quyền năng của Đức Phật Từ Bi và vị lạt-ma, nhiều chúng sinh có khả năng nhớ lại đời trước của mình ở trên thế gian. Được Tagla khuyến khích, nhiều chúng sinh gửi những lời nhắn về những hoàn cảnh đau đớn nhất của mình cho gia đình họ biết và cầu xin những người thân yêu của họ hãy làm việc thiện để thay đổi những chu kỳ nghiệp báo cho cả người chết lẫn người sống.
Trong chuyện kể delog của mình, Tagla đã nêu tên của nhiều người ở miền Đông Tây Tạng đang chịu đau khổ trong những cõi địa ngục khác nhau. Ông miêu tả những nỗi đau khổ của họ và những lời nhắn họ gởi về cho những người thân yêu. Đôi lúc Tagla không nhìn thấy những người gửi những lời nhắn cho thân nhân của họ nhưng ông nghe tiếng họ kêu khóc gọi ông.
Ví dụ, một nhóm chúng sinh trong địa ngục nói: “Xin làm ơn đem những lời nhắn này về cho thân nhân chúng tôi. Xin hãy quan hệ và gần gũi với những người thật sự có niềm tin. Xin hãy bố thí thức ăn và phẩm vật cho người, thú vật bị đói và nghèo túng. Xin hãy chạm khắc OM MANI PADME HUNG trên những hòn đá, in trên những tấm vải và treo lên làm thành những tràng phan. Xin hãy chuộc mạng sống cho những thú vật ở trong tay những đồ tể. Xin hãy cúng dường thực phẩm đang được đốt cháy (sur) và nước (chutor, Ch’ugTor) cho những chúng sinh đang đau khổ trong cõi tinh linh. Xin hãy cúng dường ánh sáng đến chư Phật và xây dựng những bánh xe cầu nguyện. Xin hãy nói OM MANI PADME HUNG bất cứ khi nào nghe tên chúng tôi hay nhớ đến chúng tôi”.
Rồi Tendzin Dargye, một vị thầy khác của Tagla xuất hiện và nói: “Bây giờ con nên đi đến tòa án của Pháp Vương của các Tử thần”. Ngay lúc đó Bạch y Hộ thần và Quỷ Đen Tối xuất hiện trở lại hai bên Tagla và mỗi vị cầm một cánh tay của ông. Họ dẫn ông đi qua một cái cổng sắt khổng lồ được những con thú khủng khiếp bảo vệ. Ở bên trong Tagla nhìn thấy Pháp Vương của các Tử thần ở trong một khối cầu bằng lửa khổng lồ, Ngài có nước da đen sẫm, bốn mặt và hai bàn tay. Tay phải của Pháp Vương vung lên một tấm bảng ghi danh sách và tay trái của Ngài cầm một dây thòng lọng đen. Đi theo ngài là hàng trăm ngàn Tử thần, trong đó có thần Awa Đầu Bò, vị thần giữ tấm bảng ghi danh sách; thần Đầu Rắn, giữ cái cân và thần Đầu Khỉ giữ sổ ghi chép.
Các Tử thần hét vang như sấm: Hung! Hung! Phat! Phat!.
Bạch y Hộ thần cùng Quỷ Đen Tối trình diện Tagla với Pháp Vương và bảo ông ấy kể cho Ngài nghe những việc làm trong cuộc đời của ông. Tagla liệt kê tấ́t cả những hành động thiện lành ông đã làm. Pháp Vương nói, “Loài người các ngươi giỏi nói dối lắm. Ai mà biết được ngươi đang nói thật hay nói dối?”
Theo lệnh của Pháp Vương, thần Awa Đầu Bò kiểm tra hành động của Tagla trong chiếc gương soi; hành động của mỗi chúng sinh đều hiện ra rõ ràng trong chiếc gương đó. Tử thần Đầu Rắn kiểm tra những hành động của ông bằng cách cân chúng trên cái cân. Thần Đầu Khỉ kiểm tra những hành động của ông bằng cách đọc danh sách trong sổ ghi chép. Tất cả đều công nhận lời khai của Tagla là đúng.
Ngay lúc đó, Quỷ Đen Tối đứng dậy và la lớn: “Ha! Ha!” Ta nghi ngờ kết quả tìm được của các vị”. Để làm bằng chứng, hắn dốc ngược cái túi đeo vai của hắn có đựng những hòn sỏi tượng trưng cho những hành động xấu xa của Tagla. Nhưng chỉ có tám hòn sỏi đen rơi ra mà thôi. Rồi Bạch y Hộ thần cũng la lớn: “Ha! Ha!” rồi Ngài bảo vệ cho những kết quả tìm được bằng cách đưa ra một núi những hòn sỏi trắng được lấy từ cái túi đeo vai của Ngài ra làm bằng chứng cho những hành động thiện lành của Tagla.
Lúc đó, Tagla nhìn thấy Pháp Vương hiện ra trong hình tướng đẹp đẽ của Ðức Phật Từ Bi. Tám vị Tử thần chính yếu của tòa án hiện ra như tám vị Bồ tát.
Từ phía bên phải của Pháp Vương một có tấm thảm ánh sáng màu trắng trải dài ra về hướng Tây. Pháp Vương nói: “Bằng con đường ánh sáng này, con có thể đi đến cõi Tịnh độ Cực lạc. Nhưng thay vì đi đến đó, con phải trở lại thế giới loài người như là một sứ giả của ta để phục vụ mọi người”. Pháp Vương thuyết phục Tagla trở lại thế gian để nói cho mọi người biết những gì ông đã nhìn thấy trong giai đoạn trung ấm và truyền đạt lại những lời nhắn mà những người ở địa ngục đã gửi gắm qua ông. Tagla không muốn trở lại thế gian vì ông thấy mình đã già rồi, nhưng rồi ông cũng đồng ý.
Bỗng nhiên ông nhìn thấy một cái tháp màu trắng bên ngoài phủ đầy tuyết và ông nhập vào trong cái tháp đó. Cái tháp đó thật ra là thân của chính ông. Ngay tức khắc, nhận thức về thế giới này trở nên rất sinh động đối với ông. Dần dần thân ông hết bệnh và ông trở lại bình thường.
Tagla phục vụ nhiều người bằng cách dạy và hướng dẫn cầu nguyện, thiền định trong nhiều năm trời. Sau đó, tại đám cưới của một người bà con, ông nghe nói có đến 1.500 con vật bị làm thịt để phục vụ đám cưới này, ông buồn rầu vô hạn và đột ngột qua đời. Lần này ông không trở lại nữa.
BỊ XAO NHÃNG VÀO ẢO TƯỞNG:
TRẢI NGHIỆM CỦA DAGPO TRASHI NAMGYA
Chuyện kể của Dagpo Trashi Namgyal minh họa sinh động sự tập trung tinh thần của người ta trong giai đoạn trung ấm thay đổi đột ngột và nhanh chóng như thế nào.
Dagpo thực hiện thiền Phowa cho chính mình và chuyển tâm thức của ông qua một lỗ mở ở phía trên của thân ông. Ở đó ông thấy một luồng ánh sáng giống như một tấm chăn trải rộng ra. Ông đến được một cõi tịnh độ đầy hỷ lạc. Trong cõi tịnh độ này, ông nhìn thấy chư Phật, các da-ki-ni và các vị lạt-ma. Ông thọ hưởng được thức ăn và nước uống chữa bệnh, âm nhạc êm dịu và vũ điệu vui tươi.
Trong cõi tịnh độ này, ông gặp một vị lạt-ma vốn là thần bảo vệ của ông. Vị lạt-ma hỏi ông một số câu hỏi và ông đáp lại. Nhưng bỗng nhiên tâm của Dagpo bị xao nhãng và ông nhìn thấy một con đường đèo cao không thể tưởng tượng được với những tràng phan ở trên đỉnh đèo. Ông nhìn thấy một cánh đồng rất lớn và bên dưới cánh đồng có một con sông màu nâu sẫm đang chảy xiết. Bên trên con sông có sáu cây cầu và phía bên kia sông là một đô thị lớn.
Lại một lần nữa, ông cảm thấy mình đang nói chuyện với vị lạt-ma bảo vệ của mình. Nhưng tâm của ông lại bị xao nhãng và ông bắt đầu nhìn thấy những hiện tướng do ảo tưởng tạo ra và những đau khổ của địa ngục.
Ông trở lại cảm giác ông đang nói chuyện với vị lạt-ma bảo vệ của mình và tâm ông bỗng nhiên bị xao nhãng một lần nữa. Ông bắt đầu nhìn thấy các Tử thần đang dẫn nhiều chúng sinh xuống cõi địa ngục.
Nhiều lần ông đang thảo luận về Chánh pháp thì những nhận thức của ông thay đổi thành ra những hiện tướng của ảo tưởng một cách đột ngột và không thể kiểm soát được. Trải nghiệm của ông chứng tỏ rằng chúng ta phải hình thành cho được thói quen giữ được sự ổn định trong dòng tâm thức khi chúng ta còn sống.
Cuối cùng, Dagpo ở trong tòa án của Pháp Vương. Chỉ tay về phía các Tử thần, vị lạt-ma bảo vệ nói: “Con không thể che giấu những hành động bất thiện mà con đã phạm phải. Các quy định của Pháp Vương của các Tử thần rất nghiêm khắc. Trong các Tử thần thì thần Awa Đầu Bò rất giỏi đếm. Thần Đầu Sư Tử rất giỏi ghi chép. Thần Mặt Khỉ giỏi về việc đọc trong tấm gương soi. Thần Đầu Hổ giỏi việc cân những hành động thiện, ác trên bàn cân. Thần Đầu Beo giỏi việc đọc các sổ ghi chép. Thần Đầu Gấu giỏi việc xác định xem hành động nào là thiện lành, hành động nào là bất thiện. Thần Đầu Gấu Xám giỏi về vũ khí. Các vị Tử thần giỏi chuyên môn này rất tuyệt vời trong việc phân biệt thế nào là một hành động thiện lành và thế nào là một hành động bất thiện.
Rồi vị lạt-ma bảo vệ nói tiếp: “Này con trai, con phải quan sát thật kỹ bản chất của giác tính nội tại. Mọi chúng sinh đều đã đi lạc vào trong cõi luân hồi vì không chú tâm vào thật tính. Đối với những chúng sinh ngu muội trong luân hồi, đau khổ không bao giờ chấm dứt. Chư Phật có nhận thức thanh tịnh và thấy mọi sự như một cõi tịnh độ đầy hỷ lạc. Chúng sinh có nhận thức bất tịnh và thấy mọi sự như những nền sắt bỏng cháy trong cõi địa ngục. Những hiện tượng của cõi trần là những thói quen nhận thức theo ảo giác của chính tâm thức mỗi người. Những ai có nhận thức khiến cho họ nhìn mọi sự như là những cõi tịnh độ thì sẽ không gặp các Tử thần mà chỉ gặp chư Phật, bởi vì trong thực tính của họ, các Tử thần chính là chư Phật”.
Rồi Pháp Vương ra lệnh cho Tử thần Đầu Gấu: “Ngươi hãy chỉ cho vị hành giả này thấy thật rõ những trải nghiệm trong những cõi địa ngục. Ông ta sẽ được đưa trở lại Thế giới Người Sống”.
Sau đó, Tử thần Đầu Gấu nói với Dagpo: “Đừng để cho tâm ngươi bị xao nhãng. Hãy đi theo ta trong khi vẫn trụ lại trong trạng thái khoáng đạt vốn là bản chất của giác tính nội tại của tâm ngươi”. Vị Tử thần đem Dagpo đi quanh xem những cõi địa ngục đau khổ không thể tưởng tượng được và những cõi địa ngục phụ khác. Rồi vị Tử thần này đem Dagpo trở lại tòa án.
Pháp Vương bảo Dagpo: “Ngươi phải hiểu rằng tất cả giáo lý được đem ra dạy trong Luật, Luận và Kinh là để rèn luyện cái tâm. Hãy nhận thức rõ bản chất của tâm, giác tính nội tại bất sinh.
“Ngươi hãy buông xả trong khi không ngừng mở rộng tâm mình. Hãy vững vàng kiên định bằng cách buông xả trong bất kỳ tình trạng nào”.
Pháp Vương ra lệnh cho ba Tử thần đem Dagpo trở lại Thế giới Người Sống. Vị lạt-ma bảo vệ giải thích: “Ta là một hóa thân của Đức Phật Quán Thế Âm”. Thần Awa Đầu Bò nói: “Ta là một hóa thân của Đức Phật Kim Cương Tát Đỏa”. Thần Đầu Khỉ nói: “Ta là một hóa thân của Đức Bảo Sinh Như Lai”. La Sát Đầu Lợn nói: “Ta là một hóa thân của Đức Phật Vô Lượng Quang”. Tất cả các vị đó đều nói: “Bây giờ ngươi trở lại thân xác ngươi, vốn là Mạn-đà-la của chư Phật”.
Sau chuyến đi sáu ngày qua các cõi địa ngục, Dagpo cảm thấy như mình vừa thức dậy sau một giấc ngủ. Vị lạt-ma bảo vệ̣ của ông và các Tử thần đã biến mất. Ông thấy mình ở trong cái hang thiền định cũ của mình trong đó có một vị tăng, một ni cô và một người thường đang chăm sóc thân xác của ông. Ông cố gắng nhìn quanh nhưng không thể thấy gì cả. Phải mất một thời gian, cơ thể ông mới trở lại sức khỏe bình thường.
BĂNG QUA CÁNH ĐỒNG CỦA NGƯỜI CHẾT:
TRẢI NGHIỆM CỦA GYALWA YUNGTRUNG
Yungtrung là một người theo đạo Bon, một tôn giáo bản địa của Tây Tạng. Câu chuyện delog này cho chúng ta thấy những lời cầu nguyện chân thành của bất cứ tôn giáo nào cũng mang lại lợi ích vào thời điểm người ta chết. Yungtrung trước đó có gần gũi với đạo Phật nên ông nhìn thấy chư thiên và các đạo sư của Phật giáo cũng như của đạo Bon đang giải thoát chúng sinh trong trung ấm. Có điều thú vị là, giống như những Phật tử Mật tông, Yungtrung cũng nghĩ về tòa án của Pháp Vương như là một phần của sự thức tỉnh để đi theo con đường và mục đích sâu sắc của tôn giáo. Đối với ông, tòa án không phải chỉ là một nơi phán xét để quyết định ta sẽ tái sinh vào cõi nào. Nếu ta nhận thức được như vậy thì đây là một sự thức tỉnh về mặt tâm linh của giác tính nội tại, thật tính của tâm.
Sau khi ra khỏi thân xác của mình, Yungtrung bỗng nhiên cảm thấy mình đang bay như một con chim, và ông băng qua nhiều ngọn núi, thung lũng. Ông thấy một đường đèo cao được trang trí bằng một đống xương người và xương thú vật. Tất cả những bộ xương đó đang gây ra những tiếng ồn ào. Đột nhiên một Đức Bà Linh Thiêng, vốn là vị thần bảo vệ của ông, xuất hiện trước mặt ông. Ngài mặc cái áo vải với ba chiếc lông công ở trên đầu. Ngài nói: “Ha! Ha! Ta không biết chắc con sẽ có gặp được mẹ của con không”. Tuy nhiên, Ngài cũng có lời khuyên cho ông, theo đó ông đi băng qua con đường đèo và thấy một ngã rẽ có ba con đường. Con đường màu đỏ đi về hướng Tây và con đường màu xanh dương đi về hướng Đông. Con đường sặc sỡ nhiều màu sắc ở giữa đi về tòa án của Pháp Vương, nơi mà từ đó người ta đạt được giải thoát hay là trệch hướng đi vào luân hồi. Yungtrung chọn đi con đường ở giữa có nhiều màu sắc giống như một con rắn. Ông bước đi thật nhanh.
Con đường trở nên hẹp đến nỗi những ngọn núi và những tảng đá hai bên đường trông có vẻ như chạm vào nhau. Một lần nữa, Yungtrung nhìn thấy hai con đường hẹp như một sợi tóc. Một con đường màu trắng ở phía bên phải và một con đường màu đen ở phía bên trái. Nhiều người đang cố gắng chạy nhanh dọc theo những con đường này và nhiều người đang bị ngã xuống.
Yungtrung chọn đi con đường màu trắng, nhưng chẳng mấy chốc nó bị nghẽn hoàn toàn. Sau đó, một vị lạt-ma đạo Bon tóc dài, ăn mặc như người thường, từ phía bên kia đến dẫn khoảng một trăm người đến giải thoát. Vi lạt-ma nói với Yungtrung: “Con đường màu trắng là con đường dành cho những ai đang làm việc vì lợi lạc của chúng sinh. Con đường màu đen dành cho mọi chúng sinh nói chung, và nó dẫn đến nơi Pháp Vương ở”.
Rồi Yungtrung thấy mình đang đứng tại cửa của một cái hang. Cánh cửa có một lỗ nhỏ mà chỉ có nắm tay của ông ta mới có thể đi qua được mà thôi. Mọi con đường đều dẫn đến cái hang và không có con đường ra nào khác. Ông suy nghĩ: “Bây giờ mình không có cái thân vật chất. Tâm thức có thể đi xuyên qua mọi thứ”. Ông lặp đi lặp lại ý này ba lần cho đám đông nghe. Bỗng nhiên ông thấy mình đứng ở phía bên kia cánh cửa bằng đá.
Ông đang đứng trong một cánh đồng màu xám khổng lồ và từ đây ông không nhìn thấy núi, cũng chẳng thấy thung lũng. Ông suy nghĩ: “Cánh đồng này là bất tận, nhưng không phải là không thể băng qua được, vì mình là rỗng không”. Ông tức khắc thấy mình đứng ở rìa phía bên kia của cánh đồng.
Ở đó, ba con sông hung hãn khủng khiếp hợp lại làm một. Một con sông đỏ từ hướng Đông chảy đến. Một con sông đen từ hướng Nam chảy đến. Một con sông màu nâu từ hướng Bắc chảy đến nhập vào hai con sông này. Chỉ có một cây cầu dài và hẹp bắc qua con sông hợp nhất khổng lồ này. Gần cây cầu, nhiều người đàn ông và đàn bà đang kêu khóc vì họ phải băng qua con sông nhưng không thể nào qua được. Với lòng từ bi, ông nói với họ: “Tất cả mọi người hãy cùng tôi cầu nguyện. Tôi sẽ cầu nguyện cho các người”. Mọi người đều lắng nghe ông với vẻ kính trọng. Với lòng sùng kính mạnh mẽ, Yungtrung cầu nguyện đến các vị đạo sư của cả đạo Bon lẫn đạo Phật:
Hri! Con cầu nguyện đến Ngài đạo sư vĩ đại Tranpa Namkha.
Con cầu nguyện đến đạo sư Tshewang Rigdzin.
Con cầu nguyện đến đạo sư Padmasambhava.
Con cầu nguyện đến Ngài Montul Tenpa Wangyal.
Con cầu nguyện đến Ngài Căn bản Thượng sư nhân từ.
Xin các Ngài dẫn tâm thức những người chết đến giải thoát.
Xin phù hộ cho họ và làm cho những nỗi sợ hãi trung ấm của họ tan đi.
Xin phù hộ cho chúng con để hoàn tất việc thực hành Phowa chuyển tâm thức.
Xin phù hộ cho chúng con đạt được những kết quả an lạc của con đường giải thoát.
Và ông quán chiếu trong trạng thái thiền định tự tại đối với mọi khái niệm. Kết quả thiền định của ông là tất cả những ai có mặt đều được tái sinh vào những cảnh giới hạnh lạc.
Vào lúc đó, vị thần bảo vệ của ông lại xuất hiện. Ông nhìn thấy một tòa lâu đài trong mờ khổng lồ cao như thể chạm đến bầu trời. Ông hỏi Đức Bà: “Lâu đài đó tên gì? Ai sống trong đó?” Đức Bà nói: “Đây là sự hợp nhất vĩ đại của hữu tướng và vô tướng, lâu đài của các Tử thần. Pháp Vương của các Tử thần sống ở trong đó. Lúc này Pháp Vương đang có thái độ thanh thản. Tốt hơn hết, chúng ta hãy nhanh chóng đi gặp Ngài”.
Yungtrung nghe những âm thanh khủng khiếp tràn ngập cả trời đất. Lúc đầu ông khiếp sợ những âm thanh đó, nhưng rồi ông tự nhủ: “Mọi âm thanh đều là âm thanh tự nhiên của giác tính nội tại. Ánh sáng là ánh sáng của giác tỉnh nội tại. Những tia sáng là tia sáng tự nhiên của giác tỉnh nội tại. Không có gì phải sợ hãi cả”. Ông tiếp tục đi tới với lòng tự tin như thế.
Trong tòa lâu đài khổng lồ của các Tử thần, có một chiếc ngai rất lớn làm bằng những chất liệu quý. Chiếc ngai có tám con vật mạnh mẽ khác nhau đỡ lên. Ngồi trên ngai là một người khổng lồ dữ tợn có nước da màu đo đỏ, to lớn như núi Tu-di. Ngài nửa thanh thản, nửa phẫn nộ, có ba con mắt và bốn cái răng nanh. Ngài có tóc màu đo đỏ bồng bềnh quanh đầu ngài như một ngọn lửa đang cháy. Ngài mặc áo choàng bằng lông thú và đầu đội một cái vương miện bằng xương và Ngài có những tràng hạt cũng bằng xương. Tay phải Ngài cầm mộ̣t cây phương trượng có mang biểu tượng svastika , tay trái Ngài cầm một cái gương soi giống như mặt trăng, trong đó Ngài có thể nhìn thấy mọi hiện tượng trên thế giới. Ngài đang gầm thét âm thanh HUNG làm cho ba thế giới đều rung chuyển. Yungtrung tin rằng người khổng lồ này là Pháp Vương của các Tử thần.
Yungtrung đảnh lễ ba lần và nói: “Thưa Pháp Vương của các Tử thần, con là Latri Lama Gyalwa Yungtrung, người tỉnh Kham. Mẹ con tên là Adron đang ở đâu?”
Thay vì trả lời trực tiếp, Pháp Vương nói: “Ha! Ha! Ngươi đến đây để giải thoát cho những chúng sinh trong ba cõi đã bị đày xuống đây vì những tội ác của họ. Giờ đây, với năng lực của ngươi, ngươi phải giải thoát tất cả những ai có quan hệ với ngươi. Nếu ngươi không thể làm được, ta sẽ hổ thẹn vì ngươi”.
Ngay lúc đó, Yungtrung thấy một ông lão theo đạo Bon đến tòa án. Ông đi cùng với một người có nước da trắng, mặc áo choàng trắng và một người có nước da đen, mặc áo choàng đen. Người mặc áo trắng bảo vệ cho ông lão, đưa ra một túi đầy sỏi trắng tượng trưng cho những việc làm tốt của ông lão. Người mặc áo choàng đen đưa ra một túi đựng đầy sỏi đen và tranh cãi chống lại ông lão. Sau đó, theo lệnh của Pháp Vương, Tử thần Đầu Khỉ và Tử thần Đầu Sư Tử đem cân những việc làm của ông lão. Kết quả là những việc làm thiện lành của ông có nặng hơn một chút ít. Tử thần Đầu Khỉ kiểm tra chiếc gương soi và chỉ thấy ánh sáng. Sau đó, Pháp Vương nói với ông: “Ngươi đã làm được nhiều việc thiện lớn lao. Nhưng điều quan trọng hơn là ngươi đã duy trì được nhận thức trong sáng và lòng kính trọng đối với vị thầy của ngươi. Do đó, ngươi được phép đi đến Shambala”.
Rất nhiều người bắt đầu trải qua việc phán xét của Pháp Vương. Các vị lạt-ma vẫn tiếp tục đến và giải thoát nhiều người trong số đó.
Yungtrung đi viếng nhiều nơi và tụng các bài cầu nguyện. Nhiều đau khổ của những cõi địa ngục biến mất khi ông hét lên một tiếng PHAT trong khi nhập vào thiền định trong trạng thái không bám chấp.
Sau khi đi một vòng các cõi địa ngục, ông trở lại tòa lâu đài. Pháp Vương ra lệnh cho Tử thần Đầu Khỉ dẫn ông đi. Ông không tìm thấy mẹ của ông.
Trên con đường trở về, ông gặp hai vị lạt-ma bị kẹt bên dưới một cây cầu. Khi họ còn ở cõi người, một người đã thực hiện phép trừ tà không đúng mục đích, và người kia đã tự cho phép mình hưởng thụ những ngân quỹ dành cho mục đích tôn giáo. Nhưng vì họ theo đạo Phật nên Yungtrung cầu nguyện chư Phật, các vị lạt-ma dòng truyền thừa Phật giáo với lòng sùng kính mạnh mẽ và thực hiện thiền Phowa. Kết quả là cả hai vị lạt-ma đều được giải thoát khỏi nơi đó.
Sau đó, Yungtrung trở lại ngang qua cây cầu, băng qua Cánh Đồng của Người Chết, đi bộ dọc theo con đường của người chết và con đường đèo của người chết. Ông về đến nhà lúc mặt trời vừa lên trên đỉnh núi.
Về sau Yungtrung có một trải nghiệm delog thứ hai. Trong lần trải nghiệm này, ông đi ngang qua con đường vào trung ấm bằng sức mạnh thiền định của việc quán chiếu về sự hợp nhất của ý thức và vô thức, giống như ông đã thực hiện trong cuộc hành trình delog đầu tiên. Lần này ông đi nhiều nơi khác nhau trong cõi người và cõi a-tu-la.
Bỗng nhiên một da-ki-ni xinh đẹp hiện ra trước mặt ông. Yungtrung cầu xin vị này đem ông đến gặp mẹ ông. Vị da-ki-ni không đáp lại gì cả nhưng biến thành một con đại bàng và bay qua bầu trời. Ý thức được mình không có cái thân thô nặng, Yungtrung, chỉ cần ước muốn, cũng biến thành một con đại bàng và bay mỗi lúc mỗi cao hơn theo vị da-ki-ni. Sau đó, họ đáp xuống một vùng đất đầy hoa ở phía bắc núi Tu-di. Ở đó, trong một cái lều bằng hoa, ông nhìn thấy một nhà hiền triết.
Vị da-ki-ni nói: “ Ngươi hãy đến đây”. Có một bông hoa, thấp hơn những bông hoa khác, vừa mới nở. Trong bông hoa đó có ba em bé. Vị da-ki-ni chỉ tay vào một em và nói: “Em bé này là mẹ của ngươi đó. Bà có nhận ra ông này không?”. Em bé nhận ra Yungtrung và nói: “Apho, tại sao con lại đến đây?”. Mẹ của ông, trong thân tướng tái sinh của một người nam, không nhớ lại được nhà cửa hay gia đinh trước đây của mình, nhưng nhớ được con trai mình. Rồi theo lời khuyên của vị da-ki-ni, họ đi đến gặp nhà hiền triết. Vị da-ki-ni yêu cầu nhà hiền triết dạy giáo lý cho mẹ của Yungtrung trong đời tái sinh mới của bà. Nhà hiền triết chấp nhận lời yêu cầu đó.
Sau đó, vị da-ki-ni đưa Yungtrung đi xem cảnh giới chư thiên. Sau khi đưa ra những lời tiên tri, bà bay đi Oddiyana. Yungtrung thấy mình trở lại với thân xác mình, trong nơi ở của chính mình.
ĐƯỢC TẨY TỊNH BẰNG NHỮNG DÒNG CAM LỘ:
TRẢI NGHIỆM CỦA SAMTEN CHOTSO
Trước hết, Samten Chotso đi thăm các cõi địa ngục với sự giúp đỡ của Ngài Yeshe Tsogyal, phu nhân của Ngài Guru Rinpoche. Thông thường các delog đi đến tòa án của Pháp Vương trước tiên, nhưng Samten và một vài người khác đi thăm cõi địa ngục trước. Cuối cùng, Samten đến tòa án của Pháp Vương. Bạch y Hộ thần và Quỷ Đen Tối tranh cãi bênh vực và chống lại bà. Các Tử thần kiểm tra tấm gương soi. Họ thấy bà đã giết hại nhiều chim chóc, côn trùng và đã nói rất nhiều lời nguyền rủa. Vì thế, bà tức khắc bị hành hạ bằng cách bị quất bằng roi trên một cánh đồng nóng bỏng và bị rót kim loại nóng chảy vào miệng. Bà nhớ lại Guru Rinpoche và cầu nguyện Ngài. Kết quả là vị Bạch y Hộ thần của bà đến để đưa bà đến gặp Pháp Vương. Mặc dù bà nghĩ rằng điều bà đã kinh qua kéo dài cả một năm, nhưng Pháp Vương nói với bà nó chỉ kéo dài bằng thời gian đủ để uống một tách trà.
Sau đó, Pháp Vương yêu cầu các Tử thần kiểm tra cái cân, và những hành động đáng khen của Samten đã chứng tỏ là nặng hơn nhiều những hành động bất thiện của bà. Cuối cùng, Pháp Vương ra lệnh cho hai Tử thần đem bà trở lại thế giới loài người. Ngài khuyên Samten tu hành theo Chánh pháp và giúp đỡ người khác. Rồi Ngài nói thêm: “Từ giờ trở đi, ngươi không cần đến đây nữa. Ngươi có thể đi đến cõi Tịnh độ Cực lạc”.
Trên đường đi, Samten găp Mẹ Yeshe Tsogyal và Ngài hỏi về chuyến đi của bà. Trên đường trở về, Ngài chỉ cho Samten thấy năm cõi tịnh độ của Phật làm bằng ánh sáng ngũ sắc ở bốn hướng và ở phía trên.
Samten xin Ngài Yeshe Tsogyal dẫn bà đi đến cõi Tịnh độ Cực lạc. Cưỡi một con sư tử, Yeshe Tsogyal để Samten ngồi trên lưng một con la trắng và dẫn bà đi. Họ đi đến đỉnh một ngọn núi về hướng Tây. Từ đó, họ nhìn thấy cõi Tịnh độ Cực lạc rất rõ ràng. Vui mừng tột độ, Samten đảnh lễ ba lần. Con la và con sư tử biến mất. Bỗng nhiên vùng đất họ đang đứng ở đó trở thành mềm mại. Ở mỗi bước chân bà đi, có một bông hoa mọc lên. Bà tắm trong một cơn mưa nước cam lộ và uống nước cam lộ chảy xuống. Mọi điều bất tịnh và ác nghiệp đều được thanh tẩy. Thân của bà trở nên trắng như thể được làm bằng ốc xà cừ. Mỗi bước đi bà băng qua một thung lũng. Cuối cùng, bà đến một cõi tịnh độ đẹp lạ lùng với cây, trái, hoa rất xinh, những vật liệu và những đồ trang trí quý báu. Các vị Bồ tát trong thân tướng chim chóc đang ca hát. Samten ước cái gì thì cái đó hiện ra tức khắc. Samten đi ngang qua ba lớp tường chỉ trong ba bước. Bà đến trước mặt Đức Phật Vô Lượng Quang; Ngài đang ngồi dưới gốc một cây khổng lồ sum sê một cách kỳ lạ. Ở bên phải của Ngài là Đức Quán Thế Âm và ở bên trái Ngài là Đức Kim Cương Thủ. Mỗi vị đang ở giữa một trăm triệu vị Bồ tát và tăng. Rất nhiều vị Phật và Bồ tát nam nữ có mặt ở khắp nơi với vô số đệ tử. Cũng còn có đủ mọi loại chư thiên trong những hình tướng phẫn nộ, gồm cả Guru Rinpoche nữa. Samten cũng nhìn thấy vô số các vị lạt-ma thuộc nhiều dòng truyền thừa khác nhau.
Câu chuyện delog này không nói đến việc bà trở lại thân của mình như thế nào.
ĐỪNG NẢN LÒNG:
TRẢI NGHIỆM CỦA CHANGCHUB SENG-GE
Changchub muốn đi về nhà và bỗng nhiên thấy mình đang ở trong nhà bố mẹ mình. Ông đi qua nhà mấy người hàng xóm xin thức ăn và hỏi han này nọ thì không ai trả lời ông, thậm chí họ không nhìn ông nữa. Ông nghĩ chắc mọi người giận ông.
Có một cô gái đang xách nước. Ông xin một ít nước để uống nhưng cô không nói gì cả. Khi ông tự mình lấy nước uống từ bình nước của cô, bình nước tuột khỏi tay cô và bể tan tành. Ông nắm lấy đuôi một con ngựa và con ngựa ngã xuống. Một phụ nữ đang xe chỉ và ông hỏi thì bà không trả lời. Khi ông cố gắng chạm vào cuộn len, nó bay đi như bị bão thổi và bà ấy phải chạy theo cuộn len. Chuyện này làm cho Changchub lo lắng nhiều hơn, bởi vì ông nhớ lại có người nói: “Hồn ma có thể làm đồ vật di chuyển được mặc dù người ta không nhìn thấy chúng”.
Rồi ông suy nghĩ: “Bây giờ mình nên đi đến tu viện”. Trên đường đi, có một con chó vừa sủa vừa chạy đuổi theo ông. Một phụ nữ la con chó và nói: “Con chó khốn kiếp, chắc là mày đang sủa mấy con quỷ”. Vì người ta vẫn tin rằng chó và mèo có thể thấy được hồn ma. Nghĩ rằng bà ta gọi mình là quỷ, Changchub nói trả miếng: “Bà chỉ cho tôi vị thần nào của bà mà không phải là quỷ!”. Bà ấy không nghe ông nói. Sau đó, ông về đến tu viện. Ông nhìn thấy một xác chết nơi chỗ ở của ông. Xác chết đang được hai con chó săn to lớn, dữ tợn canh giữ. Changchub sợ hãi lắm. Rồi trong đầu ông nảy sinh ý nghĩ: “Có thể mình chết rồi chăng!”.
Ngay lúc đó, ông thấy mình đang đứng ở phía bên kia một ngọn núi lớn. Ông đang ở trong một miền đất tối tăm và đang bị một cơn bão nghiệp từ đàng sau đẩy tới. Các Tử thần đang hét vang giống như hàng ngàn tiếng sấm nổ. Cái nền sắt bỏng cháy đang làm đôi chân ông cháy sém. Vô số chúng sinh bị những nghiệp xấu đang chen chúc khắp chung quanh.
Sợ hãi quá, Changchub cầu nguyện Đức Quán Thế Âm. Ngay tức khắc, ông nhìn thấy một cậu bé tám tuổi có nước da trắng, y phục bằng lụa và được trang điểm bằng châu ngọc. Cậu bé đang ngồi trên một cái ngai hoa sen, mặt trời và mặt trăng. Sau khi ban ơn phước, Ngài đoan chắc với Changchub rằng cả hai đã có mối quan hệ trải qua nhiều đời. Đây là thần bảo vệ của Changchub, vì vậy ông cầu nguyện đến Ngài.
Changchub đi thăm nhiều cõi địa ngục. Rồi ông đến nơi ở của Pháp Vương của các Tử thần. Trong một lâu đài rất lớn, Pháp Vương ngự trên những cái đệm hoa sen, mặt trăng và mặt trời trên một cái ngai làm bằng những vật liệu quý, được đỡ bởi tám con thú và chim. Phần y phục phía trên của thân Ngài bằng lụa trắng và những châu ngọc quý giá. Phần dưới Ngài mặc một cái quần bằng da hổ và có một con rắn đen làm dây thắt lưng. Những tia sáng tỏa ra từ thân Ngài rực rỡ đến nỗi làm lóa mắt những ai nhìn vào. Đôi mắt của Pháp Vương đỏ như máu. Ngài cầm trong tay một ngọn lửa và nước. Bên phải Ngài là một chiếc gương sáng và bên trái Ngài là tấm bảng ghi danh sách. Vây quanh Ngài có khoảng một ngàn Tử thần. Họ đều trông giống Pháp Vương. Trước mặt Ngài là vô số chúng sinh tụ tập lại, nhiều như những hạt cát của một con sông, và vô số Tử thần đang quyết định số phận của họ.
Pháp Vương cho người đưa Changchub đi thăm nhiều cảnh giới ngạ quỷ, súc sinh, nhân và thiên. Sau đó, qua Changchub, Ngài gửi thông điệp đến những chúng sinh của Thế giới Người Sống. Ngài nói: “Hãy có lòng tin nơi Tam Bảo, hãy phát triển những thái độ mang tính trí tuệ, hãy cúng dường, hãy tiếp nhận và trao truyền giáo lý, và nhất là hãy tụng đọc OM MANI PADME HUNG, vì đây là tinh túy của Chánh Pháp”.
Changchub hỏi Pháp Vương: “Có phải mọi người khi chết đều phải gặp Ngài không?”. Pháp Vương đáp: “Không một ai trong thế giới loài người mà sẽ không gặp ta, ngoại trừ hai loại người. Những người đã gắn bó với Chánh pháp từ lúc mới lọt lòng sẽ đi đến cõi Tịnh độ Cực lạc ngay khi tâm thức của họ rời khỏi thân xác. Họ không cần phải gặp ta. Những người đã phạm phải những việc xấu xa nghiêm trọng từ lúc mới sinh ra sẽ đi thẳng xuống địa ngục. Họ sẽ không có cơ hội gặp ta”.
Changchub lại hỏi thêm: “Có hành động thiện lành nào mà không mang lại lợi lạc, hoặc có hành động bất thiện nào mà không có hại cho ai cả?”. Pháp Vương trả lời: “Có, cho dù ngươi đem tiền của chi vào các việc thiện nhưng nếu ngươi đã lấy tiền của đó của các vị thầy hay cha mẹ ngươi bằng cách lừa gạt hay lấy của các vị tu hành khổ hạnh bằng vũ lực, hay lấy của những người khác bằng sưu cao thuế nặng, thì hành động đó sẽ không được xem như là một việc thiện. Chống lại những kẻ thù của các đạo sư và của Chánh Pháp sẽ không bị xem như là một việc làm xấu xa. Nếu, với ý định bảo vệ những người yếu đuối và dễ bị tổn thương, ngươi chống lại thú dữ, rắn độc, trộm cướp, những kẻ sát nhân và những chúng sinh làm hại những người khác thì hành động của ngươi không bị xem là bất thiện”. Sau đó, Pháp Vương nói: “Bây giờ ngươi không cần phải đến đây để gặp ta lần nữa. Ngươi sẽ làm những việc lớn lao vì chúng sinh và ngươi sẽ đạt được Phật quả”.
Và Changchub trở lại cõi người. Ông đến được túp lều mà trước đây ông đã thiền định nhập thất trong đó trước khi ông kinh qua chuyện delog của ông. Trong nhà ông, ông nhìn thấy xác của một con chó. Một con ruồi đã đậu xuống trong miệng con chó và tụng đọc OM MANI PADME HUNG. Rồi một con bồ câu đáp xuống trên mái nhà và hỏi ông: “Tội nghiệp! Con có vất vả lắm không?”. Và một con chim én hỏi: “Con trai, con về đến rồi à?”.
Changchub thấy một cái áo của ông nằm cạnh con chó chết. Khi ông có ý nghĩ lấy cái áo đó đi, bỗng nhiên tâm của ông bị kẹt lại trong thân con chó mà thực ra là cái thân của chính ông. Ông muốn đứng dậy nhưng không được. Thân của ông lạnh như một hòn đá nằm trong nước. Ông buồn đến nỗi ông cảm thấy tim mình đau nhói. Rồi ông nhìn thấy Đức Quán Thế Âm. Ngài an ủi ông và nói: “Con trai của ta ơi, con đừng nản chí. Con đã có được một cuộc sống làm người quý báu. Con đã trở lại túp lều nhập thất thiền định của con rồi đó”. Sau đó, Changchub dần dần tỉnh lại.
ĐỊA NGỤC LÀ CÕI TỊNH ĐỘ VÔ SONG:
TRẢI NGHIỆM CỦA TSOPHU DORLO
Câu chuyện delog này là một tác phẩm có ý nghĩa sâu sắc và được viết rất hay bằng tiếng Tây Tạng nguyên thủy.
Tsophu Dorlo cảm thấy mình trần truồng, nhưng các giác quan của ông vẫn còn giống như khi ông đang còn sống. Ông bắt đầu cuộc hành trình của mình dọc theo một con đường màu xám, hẹp và dài của trung ấm. Ông tiếp tục đi nhanh, bị đẩy tới trước bởi lực của những ngọn gió nghiệp, và có muốn đứng yên cũng không được. Không gian đen tối, không có ánh mặt trời hay ánh trăng, đầy những bão tố, lũ lụt và những cơn mưa tuyết và vang dội những tiếng la hét như sấm: “Giết! Giết! Đánh! Đánh!”.
Nhiều chúng sinh đã từ thế giới con người đến đây và đang bị khổ sở vì sợ hãi, bối rối và đói khát. Trong số này có một vị lạt-ma mà Dorlo quen biết tên là Chotrag Zanpo. Ông hỏi vị ấy, “Thưa lạt-ma, Ngài đang làm gì ở đây?” Vị lạt-ma trả lời: “Ta ở đây để giải thoát cho một số người mà ta có quan hệ về nghiệp”. Vị lạt-ma giải thoát được nhiều người nhờ vào quyền năng của Đức Quán Thế Âm, Đức Phật Từ Bi.
Dorlo dâng lời cầu nguyện đến Đức Phật Từ Bi cho những người đồng hành đau khổ của ông. Ngay tức khắc, Đức Quán Thế Âm hiện ra trước mặt ông với vẻ mặt vui vẻ tươi cười và nói: “Con phải quay cái bánh xe vĩ đại lật ngược luân hồi. Con phải dẫn dắt chúng sinh trong trung ấm đến những cõi tịnh độ”. Vì vậy, sau khi tụng đọc OM MANI PADME HUNG, Dorlo dạy giáo lý cho các chúng sinh và tụng những bài kinh ước nguyện . Ngay khi đó, ông cảm thấy như thế giới trung ấm trống rỗng. Nhưng chỉ trong phút chốc, nó lại đầy ắp trở lại với những người mới đến.
Kế đó, Dorlo đến Cánh Đồng Xám Mênh Mông của những Người Chết, vốn là một cánh đồng cát nóng. Đây là một nơi của sáu điều bất định: chúng sinh không biết chắc sẽ đi đâu, ở đâu, tìm nơi trú ẩn ở đâu, làm gì, ăn gì và đi cùng với ai; và họ cũng không chắc chắn về cảm giác của họ bởi vì mọi sự luôn thay đổi.
Vì Dorlo không có thân vật chất nên những năng lượng của ông bị phơi bày ra và ông không thể kiểm soát được ý thức của mình. Vì vậy, tâm của ông chạy như một con ngựa hoang. Vì không có mặt trời và mặt trăng bên trong của những tinh chất vật lý đỏ và trắng, ông không cảm thấy chút ánh sáng nào của một mặt trời và mặt trăng bên ngoài, và mọi vật đều đầy bóng tối. Những ánh sáng của năm khí của thân ông xuất hiện như ánh bình minh. Những tia sáng khủng khiếp vẫn tiếp tục chớp lóe, như thể là những hành tinh và̀ những tinh tú đang đáp xuống mặt đất. Trong một không gian bóng tối và ánh sáng như thế, những thói quen của tâm ông phóng chiếu ra những hình tướng quái vật nguy hiểm và khủng khiếp.
Trong số nhiều chúng sinh, Dorlo nhìn thấy một lạt-ma đang đau khổ. Dorlo cầu nguyện và quay bánh xe cầu nguyện, nhưng vì vị lạtma không tin tưởng ông nên ông không giúp đỡ vị ấy được.
Sau đó, Dorlo đến cái Đèo Cát, ranh giới giữa Người Chết và Người Sống. Ông nhìn thấy hai con đường. Một con đường là con đường tối tăm dành cho những ai đã làm những hàng động xấu xa nghiêm trọng. Những người trên con đường này đang trượt giống như những tảng đá thẳng xuống những nền sắt bỏng cháy của cõi địa ngục. Con đường kia màu trắng, dành cho những người đã tích lũy được những hành động thiện lành. Bằng con đường này, người ta đi đến tòa án của Pháp Vương để chịu sự phán xét. Từ đó, họ có thể đi đến những cõi tịnh độ qua những con đường ánh sáng ngũ sắc.
Dorlo nhìn thấy một người ông từng quen biết trong quá khứ tên là Zhagsar Trashi đang đau khổ ghê gớm. Trashi van xin Dorlo cầu nguyện cho ông. Vì vậy, Dorlo tụng đọc những lời cầu nguyện và quay bánh xe cầu nguyện. Mặc dù Trashi đã làm nhiều hành động ác độc, nhưng vì ông ấy có niềm tin ở Dorlo và có những mối liên hệ trong quá khứ với Dorlo nên ông được giải thoát khỏi nơi ấy.
Rồi Dorlo đến con Sông Nâu To Lớn của Người Chết. Đó là một con sông khổng lồ với sắt nóng chảy đang sôi sục chứa đầy những chúng sinh độc ác – những phản ánh của tính chất nghiệp theo thói quen của mỗi người.
Bắc ngang qua con sông là Cây Cầu Sắt của Người Chết. Những người đã làm những việc thiện lành thấy cây cầu đó như là một cây cầu rộng, dễ đi qua và họ hầu như không thấy có điều gì đe dọa ở dưới sông cả. Nhưng một số đông người phạm tội vì có những hành động bất thiện thấy cái cầu rất hẹp, trông như thể là được làm bằng vài cọng rơm. Các Tử thần đang xua đuổi họ chạy ngang qua cầu. Nhiều người bị rơi xuống sông và đau đớn vì bị đốt cháy hoặc bị những loài vật ác độc ở dưới đó cắn xé. Dorlo dâng lời cầu nguyện và quay bánh xe cầu nguyện và hành động này của ông đã giải thoát được nhiều chúng sinh.
Sau đó, Dorlo đi đến cảnh giới địa ngục. Đó là một nơi có nền bằng sắt bỏng cháy và ở đó người ta có thể nghe được những tiếng kêu khóc la hét giữa những ngọn lửa vươn cao. Đó là một nơi quá khủng khiếp không ai dám nhìn. Vừa quay bánh xe cầu nguyện, Dorlo vừa dâng những lời cầu nguyện và mong ước. Ông nêu rõ những lời dạy của ông:
Hãy nhận biết những nhận thức ảo tưởng của các người
[đúng với bản chất của chúng]
Cảnh giới địa ngục là một cõi Tịnh độ Vô song.
Pháp Vương là hiện thân của chân lý phổ biến [pháp thân].
Tùy tùng của Ngài, các Tử thần, là những chư thiên thanh thản và phẫn nộ.
Cầu mong các người đạt được thật tính đúng với bản chất của nó.
Ông tụng OM MANI PADME HUNG ba lần. Bỗng nhiên cõi địa ngục ngập tràn ánh sáng bảy sắc cầu vồng. Mọi chúng sinh đều cảm thấy an lạc.
Sau đó, khoảng 100.000 kẻ hành hình do các Tử thần và Bạch y Hộ thần dẫn đến để chào đón Dorlo với âm nhạc và phẩm vật cúng dường. Dorlo bước vào tòa án của Pháp Vương, theo sau ông có khoảng 100.000 chúng sinh đã qua đời, Pháp Vương thốt lên: “Ngươi có mặt ở đây thật là tuyệt vời. Nếu ngươi có thể nhận ra ta thì ta là thân của chân lý phổ biến, tức là Pháp thân. Nếu ngươi không thể nhận ra ta thì ta là Pháp Vương của các Tử thần, người quyết định ai đã làm những việc thiện lành và ai đã làm những việc bất thiện. Chúng sinh sân hận sẽ đi đến cõi địa ngục, chúng sinh với nhiều bám luyến sẽ đi đến cõi ngạ quỷ, những kẻ ngu muội đi đến cõi súc sinh, những kẻ có lòng ghen ghét đi đến cõi a-tu-la, và những ai có lòng kiêu hãnh sẽ đi đến cõi chư thiên. Chúng sinh có những việc làm thiện lành pha lẫn với ngũ tình phiền não này sẽ đi đến cõi người. Những ai đã làm những việc thiện lành thuần túy sẽ không phải chịu đau khổ trong trung ấm hay là trong cõi địa ngục. Họ sẽ đi thẳng đến những cõi Tịnh độ Cực lạc ngay khi họ chết giống như một con đại bàng bay qua bầu trời”.
Pháp Vương ban lệnh cho các Tử thần. Ngài nói: “Ta nhìn thấy trên tấm bảng hàng trăm ngàn chúng sinh đã đến lúc chết rồi. Vậy hãy xem họ đã làm những việc thiện hay bất thiện. Hãy xem hành động của họ trong tấm gương soi có khả năng thấy được tất cả. Hãy tham khảo cuốn sách ghi chép các chi tiết. Hãy cân những hành động của họ bằng cái cân chính xác. Hãy lắng nghe âm thanh của trống chiến thắng. Và đừng mắc phải sai lầm nào cả.
Những kẻ hành hình thỉnh cầu Pháp Vương đích thân xem xét vấn đề, bởi vì những chi tiết về nghiệp của những chúng sinh này khó mà xác định. Lúc đó, Pháp Vương ra lệnh cho Bạch y Hộ thần và Quỷ Đen Tối phải trình bày cho cẩn thận hoàn cảnh của mỗi chúng sinh.
Bạch y Hộ thần bênh vực cho những người đi theo Dorlo. Thần tập hợp cả một núi những hòn sỏi tượng trưng cho những hành động thiện lành mà mỗi chúng sinh tích lũy được. Sau đó, Quỷ Đen Tối buộc tội họ và xếp chồng lên nhau một núi những hòn sỏi đen tượng trưng cho những việc làm bất thiện của họ. Căn cứ trên những bằng chứng này, Pháp Vương đưa những người đã làm những việc thiện đến những cõi tịnh độ hay thế giới loài người và đưa những kẻ đã làm những việc bất thiện đến những cảnh giới thấp kém hơn.
Sau đó, Pháp Vương bảo thần Awa Đầu Bò đưa Dorlo đi xem những cõi địa ngục nóng và lạnh. Dorlo đã đi qua tất cả tám địa ngục nóng. Ở nhiều nơi, ông dâng lời cầu nguyện đến Đức Phật Từ Bi, tụng OM MANI PADME HUNG, và thiền quán về “trao đổi chính mình với những người khác” và làm như vậy ông đã giải thoát được nhiều người. Dorlo gặp nhiều chúng sinh từ thế gian đến; một số người ông quen biết, một số khác thì không, nhưng mọi người đều gửi những lời nhắn về cho thân nhân họ, cầu xin thân nhân làm Pháp sự và hồi hướng công đức đích danh cho họ.
Nhiều vị lạt-ma và chư Phật cũng đang đi vào trong những cõi địa ngục và giải thoát chúng sinh bằng cách giảng giáo lý và ban ơn phước cho họ.
Sau đó, Dorlo trở lại chỗ Pháp Vương. Ngài ra lệnh cho ông trở lại thế gian. Ngài nói: “Hãy miêu tả lại những chuyện đau khổ trong các cõi địa ngục cho người ta biết. Hãy làm việc thiện lành và hãy từ bỏ những việc bất thiện. Hãy trao truyền giáo lý. Con sẽ mang lại lợi lạc lớn lao cho nhiều người. Trong đời kế tiếp của con, con sẽ đi về cõi tịnh độ trên trời và sẽ mang lại lợi lạc cho nhiều người hơn nữa”.
Bây giờ Dorlo cảm thấy mình đang trở lại dương gian theo một con đường ánh sáng với âm nhạc và khói hương khắp nơi như cuộc đưa tiễn của Bạch y Hộ thần.
Dorlo bị ngất đi một thời gian. Ông nhìn thấy Ngài Guru Rinpoche. Ngài ban quán đảnh trọn đời cho Dorlo và đưa ra những lời tiên tri đầy khích lệ. Cuối cùng, Dorlo tỉnh dậy và thấy mình ở trong thân người của mình chung quanh có nhiều người khác.
HÌNH TƯỚNG KHÔNG TÁCH RỜI KHỎI TRÍ TUỆ:
TRẢI NGHIỆM CỦA DAWA DROLMA
Dawa Drolma đã đi qua một số cõi tịnh độ và cõi địa ngục. Trong phần tóm lược này, tôi chú ý nhiều hơn những trải nghiệm của bà trong cõi tịnh độ của Ngài Guru Rinpoche, bởi vì những cõi địa ngục đã được miêu tả đầy đủ trong những chuyện delog khác.
Cõi tịnh độ thị hiện của Ngài Guru Rinpoche
Dawa Drolma cảm thấy mình di chuyển qua bầu trời, bay vút lên như con chim kền kền. Bà thấy mình ở trong cõi tịnh độ được hiển thị của Ngài Guru Rinpoche, vị Phật trong hình tướng một đạo sư chứng đạt. Có một cánh đồng rộng mênh mông. Ở ngay chính giữa cánh đồng, bà thấy một ngọn núi đá màu đỏ khổng lồ có hình trái tim. Ngọn núi này được bao quanh bởi nhiều ngọn núi khác có đỉnh nhọn như những thanh gươm, tất cả đều sáng chói một màu đo đỏ. Bầu trời đẹp đẽ với ánh sáng cầu vồng ngũ sắc. Đủ mọi loài chim xinh đẹp đang hót và vui đùa với nhau. Mặt đất đầy hoa đủ loại màu sắc. Toàn bộ không gian tràn ngập hương thơm ngọt ngào kỳ lạ làm giác quan của bà choáng ngợp. Cũng có một ngọn núi màu xanh, giống như bằng ngọc bích. Đây không phải những hiện tướng mơ hồ mà là những hình ảnh sinh động, có thật.
Ngài Bạch y Tara là thần bảo vệ của Dawa Drolma. Dawa Drolma cầu nguyện đến Ngài Guru Rinpoche bằng cách lập đi lập lại bài Chú Nguyện Kim Cương Bảy Dòng (Vajra Seven-line Prayer) và quán niệm về Guru Yoga.
Bà đảnh lễ và dâng các Mạn-đà-la cho cõi tịnh độ.
Ở chính giữa ngọn núi, bà nhìn thấy tòa lâu đài rất kỳ lạ của Guru Rinpoche tên gọi là Hoa Sen của Ánh Sáng. Tòa lâu đài là trí tuệ giác ngộ của Ngài Guru Rinpoche, tự nhiên hiện ra với hình dáng một tòa lâu đài ánh sáng dạ quang. Tòa lâu đài này là một dạng cấu trúc sang trọng bậc nhất bằng vật liệu quý giá với những thiết kế và trang trí đắt tiền. Mỗi chi tiết biểu thị và cho người ta hiểu được một loại trí tuệ và phẩm tính đặc biệt nào đó của Phật tính. Ở trong cõi tịnh độ này, có rất nhiều những vị đạo sư, da-ka và da-ki-ni đã giác ngộ.
Tại cổng phía Đông của cung điện, bốn da-ki-ni giúp cho Dawa Drolma mặc một cái áo mới, sặc sỡ và chói lọi như cái cầu vồng. Sau khi bước vào cái cổng bằng pha lê ngoạn mục, bà đi lên một dãy bậc cấp dài. Sau đó, bà cùng với các vị lạt-ma và da-ki-ni cử hành một buổi lễ tiệc lớn trong một căn phòng khổng lồ. Bà tụng đọc những lời nguyện tịnh hóa cùng với các vị này. Rồi một da-ki-ni có nước da màu xanh dương hộ tống bà đến một lâu đài rất rộng, lâu đài chính trong số nhiều lâu đài của quần thể rộng lớn này. Ở trong lâu đài này, bà tham gia cùng với nhiều người khác vào một nghi lễ tịnh hóa bằng cách tắm với nhiều người khác.
Dawa Drolma được dẫn đi xem khắp cung điện kỳ lạ và nhiều cung điện khác trong cùng khu vực. Ở những nơi này, bà được chào đón và được ban ơn phước bởi nhiều vị đạo sư trong thân tướng chư thiên rực rỡ. Các Ngài đang tỏa ra năng lực tâm linh ngập tràn. Một số các Ngài là những vị thầy đã quá cố của chính bà. Nhưng một số khác là các vị đạo sư quan trọng của thời xa xưa, chẳng hạn như Yeshe Tsogyal, Công chúa Mandarava, Legyi Wangmo-che, Khyentse Wangpo và nhiều vị da-ki-ni. Bà đảnh lễ các Ngài và cầu nguyện với lòng sùng kính chân thành.
Dưới chân Ngài Guru Rinpoche
Có Bạch y Tara đi cùng, Dawa Drolma đi vào một cung điện khác đẹp ngoài sức tưởng tượng, giống như làm bằng pha lê đỏ. Lâu đài này cao rộng mênh mông đến nỗi không ai có thể tưởng tượng ra chiều kích của nó. Được trang hoàng với rất nhiều đồ trang trí sang trọng, lâu đài chứa đựng vô vàn của cải và hàng đống phẩm vật cúng dường không thể tưởng tượng được.
Cuối cùng, ở giữa một sảnh đường lớn, Dawa Drolma nhìn thấy một cái ngai khổng lồ có vẻ như cao hơn cả một tòa nhà ba tầng. Cái ngai đang tỏa những tia sáng ra khắp mọi hướng. Trên ngai đó, bà có thể ngắm nhìn sự hiện diện diệu kỳ của Ngài Guru Rinpoche, Padmasambhava, hiện thân của trí tuệ, lòng từ bi và quyền năng của tất cả các vị đã giác ngộ. Ở chung quanh cái ngai, bà nhìn thấy vô số các vị da-ki-ni và các bậc đạo sư trong nhiều hình tướng khác nhau, với màu da, y phục, tư thế, và cử chỉ khác nhau và chung quanh các ngài vang lên nhiều giai điệu âm nhạc khác nhau. Khi nhìn thấy Guru Rinpoche, mọi khái niệm của bà tự nhiên chấm dứt. Bà đạt được sự xác quyết trong nhất thể bằng một trạng thái kỳ lạ, không thể hiểu được và không thể diễn tả được. Bà nghỉ ngơi một lát trong một trạng thái vừa vui vẻ, vừa cô đơn.
Sau đó, Dawa Drolma đến gần cái ngai hơn và đặt trán của mình chạm vào hai chân của Ngài Guru Rinpoche. Ngài Guru ban phước cho bà bằng cách đặt tay lên đầu bà và niệm Bài Chú Nguyện Kim Cương Bảy Dòng.
Khi Dawa Drolma đi thăm cõi tịnh độ, nhiều vị đạo sư truyền dạy giáo lý và ban phước cho bà. Bà cũng gặp một vị đại lạt-ma tên là Dechen Dorje, vốn là người chú đã quá cố của bà. Ông đã tái sinh vào cõi tịnh độ của Guru Rinpoche. Ông truyền đạt giáo lý, những lời tiên tri và ban ơn phước cho bà, khuyên bà trở lại cõi người.
Sau đó, Dawa Drolma được đưa đến một căn phòng rất đẹp, có giường, gối và gối tựa đầu giường cùng với một người phục vụ đứng cạnh. Bà ngủ một lát. Sau khi thức dậy, bà đi gặp Ngài Guru Rinpoche một lần nữa, tụng đọc bài Chú Nguyện Kim Cương Bảy Dòng và cầu nguyện. Ngài Guru Rinpoche ban ơn phước cho bà. Với lòng từ bi vô hạn, Ngài nói: “Bây giờ, với ý thức rõ ràng về những đau khổ của sáu cõi phàm tục, con phải trở về với thế giới loài người. Con hãy nói cho mọi người biết những gì con đã nhìn thấy và khẩn khoản khuyên họ nên sống đời đức hạnh”.
Dawa Drolma buồn bã chia tay Ngài Guru Rinpoche, nước mắt tuôn trào. Trên đường đi ra, ở nhiều nơi và nhiều cổng khác nhau, bà nói lời từ giã các đạo sư và các da-ki-ni và được họ ban nhiều ơn phước.
Những lời thông tuệ cho cõi người
Sau đó, Ngài Bạch Y Tara dẫn Dawa Drolma đến các cõi địa ngục. Dawa Drolma kinh qua những trải nghiệm trong trung ấm. Bà nhìn thấy Pháp Vương của các Tử thần trong hình tướng phẫn nộ và khủng khiếp ở trong tòa án của Ngài. Trong khi bà đi thăm các cõi địa ngục, bà đã giúp đỡ nhiều chúng sinh đau khổ bằng cách dạy giáo lý, cầu nguyện và tụng bài chú của Guru Rinpoche: OM AH HUNG VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUNG. Bà cũng nhìn thấy tận mắt hậu quả của những ảnh hưởng của nghiệp và sự khốc liệt của những nỗi đau khổ trong những cõi địa ngục.
Vì vậy bà có thể giảng dạy có hiệu quả hơn khi bà trở lại thế giới của người sống. Bà cũng mang theo về những lời nhắn của những người chết gửi cho những người thân yêu trong thế giới người sống.
Rồi Bạch Y Tara đưa Dawa Drolma đi viếng Potala, cõi tịnh độ của Đức Quán Thế Âm, và Yulo Kopa, cõi tịnh độ của Tara trước khi trở lại với thế giới loài người.
Khi Dawa Drolma đang đi thăm cõi tịnh độ của Tara, bà bỗng nhiên cảm thấy rằng Dharmapala Tseringma đang gọi bà ba lần: “Dawa Drolma! Hãy trở về thế giới loài người!”. Rồi một suy nghĩ nảy sinh: “Chú Rinpoche của mình, bố mẹ mình và tất cả những người thân yêu của mình đang trong Thung lũng Throm. Mình phải trở về!”. Cùng với Ngài Bạch Y Tara, bà trở về ngay chỉ trong giây lát.
Ở nhà, thầy của Dawa Drolma, Tromge Trungpa mở cửa phòng trong đó có xác thân của bà và cử hành lễ trường thọ cho bà. Ngay sau đó, tâm thức của Dawa Drolma trở lại với thân bà. Bà miêu tả việc bà trở lại thân xác như sau:
Bà cảm thấy thân mình bị tê và các giác quan không nhận biết gì rõ ràng cả. Bà đang bị chìm đắm trong lòng sùng kính đối với các vị đã giác ngộ, trong niềm vui nhớ lại những cõi tịnh độ, và trong nỗi buồn vì những đau khổ trong các cõi địa ngục. Từ một trạng thái lẫn lộn như vậy, bà hoàn toàn tỉnh lại giống như bà từ từ thức dậy sau một giấc ngủ sâu. Chú Trungpa của bà đang đứng trước mặt bà, tay cầm một mũi tên nghi lễ trường thọ và đang lo lắng nhìn bà bằng đôi mắt đỏ ngầu của ông. Bà không dám nói một lời nào cả vì bà cảm thấy hơi bối rối. Các vị lạt-ma cử hành một buổi lễ tịnh hóa. Các bạn của bà vừa khóc vừa hỏi dồn dập: “Bạn có mệt không?”, “Có đói không?”, “Có khát không?”, bà không cảm thấy đói hay khát gì cả nhưng bà không thể nào làm cho họ tin bà được. Cuối cùng, mọi người đều vui vẻ trong việc cử hành buổi trai soạn.
Dawa Drolma khuyên người ta về việc làm thế nào để khỏi bị tái sinh vào những cõi địa ngục và chắc chắn được tái sinh vào những cõi tịnh độ. Sau đây là tóm lược thông điệp của bà gửi đến mọi người trong cõi người:
Hãy thông qua thiền định để gột sạch những việc làm bất thiện của mình. Hãy kiềm chế không sa vào những hành vi bất thiện nữa.
Hãy tạo phước đức, tụng niệm kinh điển, sao chép kinh văn, tỏ lòng tôn kính và cúng dường đến những đối tượng linh thiêng như những ảnh tượng chẳng hạn.
Hãy thực hiện những lễ nghi của các chư thiên và tụng niệm những bài chú của họ.
Hãy thực hiện những lễ tiệc cúng dường.
Hãy cứu những người khác khỏi bị hại và chuộc mạng sống cho những thú vật người ta định giết thịt.
Hãy kéo lên những tràng phan, chạm khắc những câu chú lên những hòn đá, quay những bánh xe cầu nguyện và hãy tuân thủ những nghi lễ nhịn ăn. Hãy tạo ra và duy trì lòng sùng kính Đức Phật và Chánh pháp.
Hãy phát triển lòng từ bi đối với mọi chúng sinh.
Đặc biệt là hãy tuân thủ và hoàn thiện ba nhận thức thanh tịnh: nhìn thấy mọi sự như là một cõi tịnh độ của chư Phật, nghe mọi âm thanh như là linh thiêng và trải nghiệm mọi tình cảm (vật chất, tinh thần và cảm xúc) như là trí tuệ Phật, sự an bình, hỷ lạc và toàn giác tối hậu.
Cuối cùng, hãy hồi hướng mọi công đức của những hành động thiện lành của bạn đến những cá nhân cụ thể và đến mọi chúng sinh.
Dawa Drolma đã dành quãng đời còn lại của mình để truyền dạy Chánh pháp dựa trên những trải nghiệm delog của bà và hoàn toàn tận hiến cuộc đời mình để phục vụ người khác. Bà thường nói với những người hay than vãn: “Dù cho sự sống của bạn trên cõi đời này có khó khăn thế nào đi nữa thì cũng không thể so sánh nó với những đau khổ trong các cõi địa ngục được”.
Dawa Drolma đi hành hương ở miền Trung Tây Tạng và tại đây bà mang thai con trai đầu lòng của bà là Chagdud Rinpoche. Ông này về sau qua Ấn Độ và sau đó sang phương Tây. Ông giảng dạy và thành lập một số trung tâm Phật giáo ở Hoa Kỳ và Bra-xin. Sau đó, bà có một cô con gái tên là Thrinle Wangmo. Năm 1941, lúc bà 32 tuổi, bà qua đời chẳng bao lâu sau khi sinh một người con trai nữa. Người con trai này cũng qua đời. Người ta chứng kiến nhiều điều kỳ diệu vào lúc bà chết và lúc hỏa táng bà. Bà và những chuyện kể delog của bà đã tạo cảm hứng trong lòng nhiều người ở nhiều vùng ở miền Đông Tây Tạng, khiến cho họ tin vào qui luật của nghiệp và tái sinh. Và điều này lại khơi dậy một bản chất thiện lành hơn ở nhiều người, khuyến khích sự hình thành một nền văn hóa trong đó người ta quan tâm đến nhau.
HÃY ĐỂ MỌI NGƯỜI ĐƯỢC GIẢI THOÁT:
TRẢI NGHIỆM CỦA SHUGSEB JETSUN LOCHEN
Shugseb Jetsun Lochen miêu tả rất hay chuyến viếng thăm của bà đến cõi tịnh độ của Ngài Guru Rinpoche và chỉ rõ rằng những cõi địa ngục chỉ là những nhận thức mang tính ảo giác của tâm mà thôi.
Cuộc hành trình với vị da-ki-ni Một Mắt
Tâm thức của Jetsun đã rời khỏi thân xác của bà. Bỗng nhiên một vị da-ki-ni rất quyến rũ với nước da màu ngọc lam, lông mày xinh đẹp, mái tóc buông xõa hiện ra trước mắt của bà. Vị da-ki-ni này chỉ có một con mắt ngay giữa trán. Ngài hỏi Jetsun: “Này con gái ơi, con có muốn đi đến Núi Màu Đồng Quang Vinh, cõi tịnh độ thị hiện của Ngài Guru Rinpoche không?”. Jetsun đáp: “Dạ có!”.
Cầm tay vị da-ki-ni, Jetsun bay nhanh cùng với Ngài ở trên không qua nhiều miền đất. Họ băng qua một cánh đồng rộng và vượt qua một con sông lớn. Rồi họ đi ngang qua một vùng đất có những cây cao như chạm đến bầu trời. Cuối cùng, họ đến được đỉnh của một ngọn đèo cao. Tất cả những đặc điểm địa lý mà họ đã đi qua là những mốc trong trung ấm. Sau đó, vị da-ki-ni nói: “Hãy nhìn kìa!”.
Ở phía xa, Jetsun nhìn thấy một lục địa khổng lồ đẹp lạ thường có màu đo đỏ. Một cảm giác kỳ lạ của năng lượng mạnh mẽ với hơi nóng tràn ngập thân bà. Vị da-ki-ni nói với bà:
Này người phụ nữ may mắn, hãy nhìn phía đằng kia.
Miền đất đó là lục địa Ngayab tối thượng.
Đó là miền đất đã được chư Phật của ba thời ban ơn phước.
Vào thời xa xưa, đó là nơi trái tim của một con quỷ [bản ngã] đã được điều phục.
Nhờ vào năng lực ban ơn phước của Ngài Vajravarahi ,
Mà những giáo lý kỳ diệu bí mật đang phát triển ở đó.
Người ta nói rằng chỉ cần thấy, nghe và nghĩ về miền đất đó
Người ta sẽ đạt được giác ngộ.
Vì vậy, nếu con thực sự đến đó, đâu có khó gì!
Cho dù con chỉ nhìn miền đất đó với đôi mắt sùng kính,
Con sẽ đạt được trải nghiệm về cõi tịnh độ.
Cho nên con hãy đảnh lễ với tâm sùng kính.
Trong lòng Jetsun nảy sinh lòng sùng kính mạnh mẽ. Bà quỳ lạy Núi Vinh Quang nhiều lần. Ở đó, bà thấy một cung điện khổng lồ nguy nga, tráng lệ có hình dáng một mạn-đà-la làm bằng những vật liệu dạ quang quý báu. Cung điện này to lớn và cao như đang chạm đến bầu trời. Chung quanh cung điện, bà thấy nhiều da-ka va da-ki-ni đang cúng dường vật phẩm và sự hỷ lạc không thể tưởng tượng được. Cung điện này cũng được bao quanh bởi những khu vườn rộng mênh mông với đủ mọi loại cây như ý, những bông hoa sặc sỡ và những hồ nước xinh đẹp.
Đỉnh của cung điện là cõi tịnh độ của pháp thân, trạng thái của sự thoáng đạt tối hậu. Phần giữa là cõi tịnh độ của báo thân, miền đất của sự thịnh vượng vô tận. Phần dưới của cung điện là cõi tịnh độ của hóa thân, một cõi tịnh độ thị hiện mà mắt của những tín đồ bình thường cũng nhìn thấy được. Chỉ cần nhìn thấy cung điện này, Jetsun trải nghiệm được trạng thái tự nhiên của cái tâm giác ngộ của chính mình.
Đi vào Núi Vinh Quang
Ngay lúc đó, vị da-ki-ni nói: “Bây giờ chúng ta sẽ đi đến đó”. Khi họ đi về phía Núi Vinh Quang, Jetsun cảm thấy có một đám đông người nhìn theo họ. Chỉ trong chốc lát, họ đến một cái cổng rất ấn tượng làm bằng vật liệu quý. Vị da-ki-ni gõ vào cánh cửa. Một phụ nữ có nước da đo đỏ và dáng điệu mạnh mẽ bước ra hỏi: “Các người là ai?”. Vị da-ki-ni trả lời:
Người phụ nữ này là người xứ Tây Tạng, miền đất của Chánh pháp.
Bà ấy là sự thị hiện của tâm của Ngài Da-ki-ni Ánh Sáng Xanh Dương Rực Rỡ.
Bà ấy đến để gặp Đại sư, hiện thân của tất cả các bậc thiện trí thức.
Nhưng bà đang bị bối rối vì ảnh hưởng của nghiệp xấu.
Xin hãy hướng dẫn cho bà để bà khỏi gặp những chướng ngại trong cuộc hành trình.
Người phụ nữ có nước da đo đỏ trả lời Jetsun:
Ta chỉ là một da-ki-ni chuyên lo những lễ tiệc.
Nếu không xin phép các vị Phu nhân ở bên trong,
Mà lại đem ngươi vào ngay thì ta không thể làm được.
Con gái ơi, vui lòng chờ một lát.
Người phụ nữ quay người lại đi trở vào bên trong và vị da-ki-ni đi theo sau. Chẳng bao lâu sau năm phụ nữ rất xinh đẹp xuất hiện, tay cầm những cái bình. Họ tắm rửa cho Jetsun bằng nước cam lộ tẩy tịnh. Rồi họ dẫn bà vào cổng bên trong. Ngay lúc đó, thân bà ngập tràn cảm giác hạnh phúc.
Ở một cái cổng được trang trí công phu của cung điện, Jetsun được tiếp đón bởi một da-ki-ni quý phái, xinh đẹp và trông có chút phẫn nộ. Ngay lúc đó, tâm của Jetsun nhập vào trạng thái thiền định. Bà trải nghiệm được trạng thái thiền định của giai đoạn Bồ tát thứ mười (Bồ tát Thập địa). Jetsun đọc bảy lần những lời cầu nguyện sùng kính dâng lên vị da-ki-ni. Vị da-ki-ni này dẫn Jetsun đi lên 16 bậc cầu thang bằng pha lê. Tại đó, Jetsun thấy mình đang ở bên trong cung điện. Đó là một không gian rộng lớn vô biên. Từ đó, người ta có thể nhìn thấy mọi hiện tướng mà không bị che khuất hay chướng ngại gì cả.
Trước mặt Jetsun có một tấm màn lụa trắng có những hình trang trí bằng vàng. Khi tấm màn mở ra, bà nhìn thấy chính Ngài Guru Rinpoche ngồi như một vị vua trên tòa sen được đặt trên một cái ngai quý giá. Ngài có nước da trắng hơi đỏ, và từ Ngài toát ra sự thanh thản vô cùng, sự thoáng đạt hoàn toàn và quyền năng đầy uy lực. Ngài đội một cái mũ giống như hoa sen được trang trí với những hình ảnh mặt trời, mặt trăng và lông chim đại bàng. Ngài mặc ba cái áo tràng và bên ngoài có khoác một cái choàng có thêu kim tuyến. Tay phải Ngài cầm cây phương trượng kim cương và tay trái Ngài cầm một cái chén sọ người có bình nước cam lộ trường thọ trong đó. Hào quang của Ngài rực rỡ hơn cả trăm ngàn mặt trời. Bà cảm thấy bà nhìn Ngài bao nhiêu cũng không thỏa lòng.
Chung quanh Ngài Guru Rinpoche, Jetsun nhìn thấy rất đông các vị đại sư trong quá khứ của Ấn Độ và Tây Tạng.
Ngài Guru Rinpoche nhìn Jetsun với đôi mắt đầy yêu thương. Tóc bà dựng đứng cả lên. Mặt bà đầy nước mắt vì niềm vui vô tận và sự sùng kính cực độ. Bà đảnh lễ Ngài Guru nhiều lần và cầu nguyện nhân danh tất cả các chúng sinh. Ngài Guru Rinpoche đưa ra những lời tiên tri và ban cho bà những pháp từ như sau:
Hỡi Thị hiện của Da-ki-ni Ánh Sáng Xanh Dương Rực Rỡ, hãy nghe ta nói.
Đây là miền tối thượng, Núi Màu Đồng Vinh Quang.
Ngoại trừ những người có thiện nghiệp ra,
Người bình thường không thể nào hưởng được.
Đây là cõi tịnh độ tối thượng của ta, vị Đại Sư.
Trong số các vị tinh thông và các vị đạo sư ở đây,
Không có ai là không đạt trình độ chứng ngộ cao.
Bất kỳ ai nhìn thấy được cõi tịnh độ này,
Sẽ không bao giờ đi trệch con đường giác ngộ.
Vậy thì con hãy phát triển lòng sùng kính và hãy cảm thấy hạnh phúc.
Giờ đây, đừng chần chừ nữa, con phải trở lại Tây Tạng.
Hãy làm người dẫn đầu thuyết giảng về luật nhân quả.
Hãy làm vị đạo sư xiển dương giáo lý Đại Thừa.
Hãy làm vương miện và trang sức châu ngọc của mọi da-ki-ni.
Hãy làm tâm yếu, người nắm giữ giáo lý của ta.
Hãy phục hồi những truyền thống của các vị đạo sư trước đây.
Bất kỳ ai nhìn thấy mặt con và nghe những lời con nói
Sẽ đạt được giác ngộ. Đây là những lời của Padmasambhava.
Hỡi các bậc thiện trí thức đang tụ hội ở đây,
Hãy ban ơn phước của tâm quý vị cho Jetsun.
Ơn phước của Đại Sư
Vào lúc đó, những chùm ánh sáng nhiều màu sắc, trắng, đỏ, vàng và xanh dương từ tim của các vị đạo sư tụ hội tại đây phát ra và hòa nhập vào tim của Ngài Guru Rinpoche. Được Ngài Guru Rinpoche hướng dẫn, tất cả các đạo sư cùng nhau tụng câu chú Vajra Guru: OM AH HUNG VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUNG. Âm thanh đó vang khắp cả không gian. Rồi Ngài Guru Rinpoche để tay lên đầu Jetsun và nói:
Cầu cho thân, khẩu, ý của con
Trở thành thân, khẩu, ý của ta!
Tức khắc Jetsun cảm thấy toàn thân bị kích động và bà bắt đầu run. Bà tụng đọc những lời cầu nguyện dâng lên Ngài Guru Rinpoche với những giai điệu êm dịu, và ước nguyện hạnh phúc cho chúng sinh. Sau đó, với lòng buồn bã lúc chia tay, bà nói:
Hỡi vị Đại Sư sinh ra giữa Đại dương,
Hiện thân của tất cả chư Phật;
Những vị đại thiện trí thức của Ấn Độ và Tây Tạng,
Đang giảng giải về giáo lý của cửu thừa
Vô vàn các vị da-ki-ni, các bà mẹ,
Đang vui hưởng cảnh thiên đường của hạnh phúc và hỷ lạc
Trong Cung điện Núi Màu Đồng Vinh Quang,
Nơi những người may mắn tụ hội.
Con là một người hành khất tên là Lochen
Một mình lang thang đến đây từ xứ Tây tạng khổ đau.
Than ôi, chắc hẳn vì những việc làm xấu trong quá khứ của con
Mà con phải trở về Tây Tạng.
Hỡi các Bậc Cao Siêu đang tụ hội tại đây!
Các vị có thấy nỗi khổ đau của con?
Cầu mong cho tất cả những sự đau khổ của chúng sinh trong sáu cõi và tam giới
Đến với con, con sẽ gánh chịu giùm cho họ.
Vào lúc đó, vị da-ki-ni đã đón Jetsun tại cổng tiến đến gần bà.
Ngài ban phước cho bà với một mũi tên trường thọ và nói:
Hỡi cô gái may mắn. Hãy nghe ta nói.
Ta là Da-ki-ni Ánh Sáng Xanh Dương Rực Rỡ.
Con và ta không thể tách rời nhau,
Giống như mặt trăng và hình phản chiếu của nó dưới nước.
Con đừng buồn khi trở về;
Nhờ ơn phước của Ngài Guru Rinpoche,
Con sẽ mang lại lợi lạc cho vô số chúng sinh.
Cúi đầu chạm chân Ngài Guru Rinpoche, Jetsun tiếp nhận từ Ngài bốn quán đảnh. Bà cũng được các đạo sư khác ban ơn phước. Vị da-ki-ni Ánh Sáng Màu Xanh Dương Rực Rỡ dẫn bà ra đến cổng, ban phước và những lời tiên tri. Tại đây, Jetsun lại được vị da-ki-ni một mắt đón một lần nữa. Cùng với vị da-ki-ni này, Jetsun lên đường trở về.
Lòng từ bi trong những cõi chúng sinh đau khổ
Trong phút chốc, Jetsun đã đến được cõi chư thiên. Tại đây, các vị chư thiên nam và nữ đang mải mê với những cuộc vui âm nhạc, nhảy múa và các thú vui nhục dục khác. Chúng sinh trong cõi a-tu-la bị đau khổ vì đánh nhau. Chúng sinh trong cõi súc vật đang bị bắt phải làm nô lệ và ăn thịt lẫn nhau. Những ngạ quỷ thì đang ở trong tình trạng đói khát nghiêm trọng.
Sau đó, Jetsun băng qua một cánh đồng rất rộng và leo lên một đường đèo cao. Từ trên đỉnh đèo nhìn xuống bà trông thấy cõi địa ngục khủng khiếp và đầy đau khổ. Tâm bà ngập tràn một nỗi buồn vô hạn. Bà suy nghĩ, “Ta nên đi đến đó và van xin Pháp Vương của các Tử thần thả những chúng sinh đang đau khổ đó ra”. Những chúng sinh trong địa ngục đang chịu đau khổ vì bị tra tấn khủng khiếp trong nhiều năm trời. Họ đang bị thiêu đốt trên những cánh đồng sắt đỏ đang cháy. Họ đang bị cắt ra từng mảnh, bị nghiền nát, bị nung trong những căn phòng nhỏ bỏng cháy, bị đâm bằng những khí cụ bỏng cháy và bị bỏng vì bị đổ sắt nóng chảy vào miệng. Do bởi nghiệp đã tạo, họ sẽ không bao giờ chết và sẽ tỉnh đi tỉnh lại cho đến khi nào những nghiệp quả của cuộc sống địa ngục của họ chấm dứt.
Jetsun cầu nguyện, mặt ướt đẫm nước mắt, tâm buồn rầu và lòng đầy thương cảm. Ngay tức khắc, một vị da-ki-ni và Đức Phật Từ Bi hiện ra phía trên đầu bà và ban những lời dạy bảo về tâm linh. Nhân đó, Jetsun cầu nguyện với tất cả lòng thành. Bà cảm thấy rằng mức độ đau khổ của các chúng sinh được giảm bớt đi. Mọi chúng sinh đang đau khổ chăm chú nhìn Jetsun và một số thậm chí đã có thể quy y Tam Bảo. Jetsun tụng đọc cho họ̣ những lời dạy như sau:
Giờ đây nếu các người muốn được giải thoát khỏi những khổ đau này,
Các người hãy gặp vị đạo sư của mình, vị đạo sư mà các người tin tưởng.
Như là hiện thân của mọi nơi nương tựa tối hậu: Phật, Pháp và Tăng.
Hãy cầu nguyện vị đạo sư của mình với lòng thành kính mạnh mẽ.
Hãy ăn năn về những hành động bất thiện mình đã làm trong quá khứ.
Hãy hứa sẽ không làm những hành động như vậy nữa.
Hãy mong muốn nhận lãnh vào mình những đau khổ của người khác.
Hãy nhìn những kẻ gác địa ngục như là Đức Phật Từ Bi.
Hãy nghĩ đến cõi địa ngục như là cõi tịnh độ của Đức Phật Từ Bi.
Hãy nghe những tiếng đánh đập và giết chóc như những âm thanh OM MANI PADME HUNG.
Bản tính của đau khổ là rỗng không [trong] thực chất của nó.
Năng lực tự nhiên [của tâm] hiện diện một cách tự phát và bất tận.
Mọi hiện tướng đều sinh khởi từ năng lực của hư vô và đều được hóa giải thành hư vô.
Sự sinh khởi và hóa giải của các sự vật không phải là kế tiếp nhau mà là đồng thời.
OM: Hãy hình dung thân của con như là thân phát sáng rộng mở của Đức Phật Từ Bi.
MA: Trong thân đó hãy tưởng tượng đường kinh mạch trung tâm với bốn phẩm chất.
NI: Trong thân đó, tâm mang hình tướng một quả cầu ánh sáng ngũ sắc.
PAD: Với sức mạnh của hơi thở bình.
ME: Vào trong tim của Đức Phật Vô Lượng Quang,
HUNG: Hãy đá [quả cầu ánh sáng, tâm của con và hợp nhất thành một, và,
HRI: Hòa nhập vào bằng cách lập lại tiếng PHAT năm lần.
Đây là sự luyện tập Phowa.
Nó giải thoát tâm thức của chúng sinh bằng sức mạnh, ngay cả đối với chúng sinh đã làm điều bất thiện.
Hôm nay ta thực hiện Phowa cho chúng sinh trong cõi địa ngục.
Với lòng từ ái của chư vị lạt-ma và da-ki-ni,
Cầu mong cho tất cả các vị được giải thoát khỏi những cõi thấp kém và đạt được Phật quả...
Đến lúc này, nhiều chúng sinh chết và rời khỏi các cõi địa ngục.
Sức mạnh của Giác Tỉnh Nội tại của chính Bà
Tâm của Jetsun nảy sinh ra niềm ao ước được nhìn thấy Pháp Vương của các Tử thần. Ngay tức khắc, bà cảm thấy từ đầu của mình phát ra một chùm ánh sáng. Ở chỗ cuối phía đằng kia của chùm ánh sáng, bà nhìn thấy một pháo đài to lớn bằng sắt, trông khủng khiếp. Trong pháo đài, Pháp Vương vĩ đại ngự trên ngai được tạo thành bởi một xác chết, mặt trời, mặt trăng và hoa sen. Ngài có hình tướng phẫn nộ, mặc y phục phẫn nộ và có nước da hơi tím sẫm. Ngài đang ở giữa một cơn bão lửa cháy sáng và những dòng máu đang chảy. Ngài cầm trong tay một tấm bảng và một cái gương soi và đang gầm lên một âm thanh phẫn nộ: A-RALI! Vô số tùy tùng là các Tử thần vây quanh Ngài.
Vào lúc đó, Jetsun cảm thấy vị da-ki-ni, vốn đã đi cùng với bà cho đến lúc này, hòa nhập vào trái tim bà và Đức Phật Từ Bi đã hòa tan vào trong đầu bà.
Bà đảnh lễ Pháp Vương và đoàn tùy tùng của Ngài, và mọi người có vẻ như lảo đảo. Rồi bà cầu nguyện và mọi người dường như lập lại những lời cầu nguyện đó theo bà. Khi bà nhắm mắt trong sự tập trung thành kính, mọi người dường như bắt chước làm theo bà. Lúc đó bà ý thức được rằng tất cả những hiện tướng này chỉ là năng lực thị hiện của sự tỉnh giác nội tại của chính tâm bà.
Pháp Vương thẩm vấn bà và các vị phụ tá kiểm tra những hành động quá khứ của bà trong chiếc gương soi, trong sổ ghi chép và dùng cái cân. Thấy rằng bà chỉ có những hành động thiện lành mà thôi, họ ra lệnh đưa bà đến con đường giải thoát.
Jetsun nói với họ: “Làm sao tôi có thể đi một mình, bỏ lại tất cả những chúng sinh trong những cõi thấp kém này? Xin hãy để cho mọi người được giải thoát”. Pháp Vương trả lời:
Con không biết rằng địa ngục chỉ là phản ánh của những tính cách của tâm con mà thôi hay sao?
Ta không tạo ra những nền sắt nóng bỏng và những ngọn lửa rực sáng.
Chúng là những sản phẩm của sân hận và bám luyến của chính tâm con.
Mỗi một sự đau khổ trong những cõi địa ngục
Đều được tạo ra do sự cảm thọ chưa được giải thoát của tâm thức, như sân hận chẳng hạn.
Đối với tâm đã được giải thoát, địa ngục là cõi tịnh độ của Đại Hỷ Lạc.
Chính chúng ta là chư Phật thanh thản và phẫn nộ.
Đau khổ là “sự giải thoát ngay lúc khởi sinh”
Khi con trở về với thế giới,
Con hãy chuyển thông điệp này đến mọi người: “Luật nhân quả không bao giờ dối gạt”.
Chính con, Jetsun, con đã chứng kiến những điều đó.
Jetsun thấy mình như là Đức Phật Từ Bi cùng với hàng trăm chư thiên thanh thản và phẫn nộ đi cùng Ngài. Rồi sau khi nói OM MANI PADME HUNG, bà trụ trong quán chiếu về ý nghĩa của sự khoáng đạt hoàn toàn. Kết quả là nhiều chúng sinh được giải thoát khỏi cõi địa ngục.
Chẳng bao lâu sau đó, Jetsun trở về thân của mình và khỏe mạnh trở lại. Trong suốt thời gian Jetsun có cuộc trải nghiệm delog, mẹ bà và bạn bè bà vẫn ngồi canh xác bà suốt ngày đêm.
Đôi lúc họ ngửi được mùi thơm của hương, đôi lúc là mùi xác chết, đôi lúc là mùi thơm rất dễ chịu, đôi lúc lại là mùi hôi thối. Những mùi này là dấu hiệu cho ta biết chỗ mà Jetsun đang viếng thăm vào lúc đó.
KHÔNG CÓ GÌ PHẢI CHẤP NHẬN HAY CHỐI BỎ:
TRẢI NGHIỆM CỦA DO KHYENTSE YESHE DORJE
Do Khyentse (1800-1866), sinh ra ở tỉnh Golok miền Đông Tây Tạng, được biết đến như một đạo sư vĩ đại nhất và một trong những bậc kỳ tài của trường phái Nyingma (Cổ Phái) trong Phật giáo Tây Tạng. Những chuyến đi đến các cõi tịnh độ của những vị tu hành lão luyện như Do Khyentse thường thường được các tài liệu Phật giáo Tây Tạng xếp vào loại những linh kiến thuần túy hay là những hoạt động đầy trí tuệ, chứ không phải là những trải nghiệm delog. Do Khyentse cũng vậy, chỉ đề cập đến chứ không nói rõ những chi tiết chuyến đi của ông đến những cảnh giới thấp kém như những cõi địa ngục. Chính những chi tiết này lại rất quan trọng trong những tài liệu về delog để có thể thuyết phục người ta. Vì vậy, tường thuật của ông về việc đi đến các cõi tịnh độ không thể được xem như chuyện delog.
Tuy nhiên, tôi đưa vào đây chuyện kể về chuyến đi đến các cõi tịnh độ của Do Khyentse vì chuyện kể của ông làm sáng tỏ chủ đề về chuyện viếng thăm các cảnh giới khác sau khi lìa bỏ xác thân của mình và nó cũng cho ta biết những chi tiết về cõi tịnh độ thị hiện của Ngài Guru Rinpoche.
Lúc còn trẻ và sống như một người ẩn tu, Do Khyentse đi lang thang trong những vùng thuộc Amdo ở Đông Bắc Tây Tạng theo lời dạy của vị giáo thọ chính của ông là Ngài Dodrupchen Rinpoche đệ nhất. Ông bất ngờ bị bệnh đậu mùa mà vào thời đó được xem như là vô phương cứu chữa. Kết quả là ông qua đời và nằm chết trong 15 ngày. Vì trước đây ông đã tỏ ra có năng lực thần bí khác thường từ lúc còn nhỏ nên những người theo hầu ông không động đến thân xác ông với hy vọng ông sẽ sống lại.
Thân xác hư huyễn bị ăn tươi nuốt sống
Do Khyentse cảm thấy ông ta đi cùng với người em gái của mình là da-ki-ni Losal Drolma, vốn cũng là một đại danh lão luyện, và hai người phụ nữ khác cùng với một hành giả. Họ cùng đi với nhau đến nhiều nơi trên thế giới, từ những cõi địa ngục cho đến những cõi tịnh độ trên trời. Mặc dù Do Khyentse cảm thấy ông có những người đồng hành nhưng những người bạn của ông không cùng chia sẻ trải nghiệm của ông. Chẳng hạn như người em gái của ông vào thời gian đó đang theo học với Ngài Dodrupchen.
Băng qua nhiều lục địa, họ đi về phía Núi Màu Đồng Vinh Quang, cõi tịnh độ của Ngài Guru Rinpoche. Trên đường đi, họ gặp nhiều chúng sinh tại nhiều nơi khác nhau. Mặc dù ông không thể hiểu được ngôn ngữ của họ nhưng ông có thể giao tiếp với họ thông qua năng lực của giác tỉnh nội tại của tâm ông.
Tại đầu một cây cầu khổng lồ, nhóm của ông được 10 chư thiên phẫn nộ đón. Các chư thiên này thực hiện một nghi lễ để xua tan đi những dấu vết gây hại. Những người du hành vẫn đang còn mang theo trong người họ những dấu vết gây hại đã có từ những thói quen làm người của họ mặc dù họ là những đạo sư đã chứng đạt và đã tách rời khỏi thân xác của họ.
Sau khi đi qua những cổng ngoài và những cổng trong, họ được một vị tu hành lão luyện đón. Trong tay vị này có cầm một bình đầy nước cam lộ. Vị này rửa sạch những điều bất tịnh của họ với dòng nước cam lộ rót từ bình ra.
Sau đó, họ đi vào một cung điện sang trọng không thể tưởng. Bên trong, họ nhìn thấy Ngài Guru Rinpoche trong hình tướng phẫn nộ với uy lực mạnh mẽ đến nỗi Do Khyentse sợ hãi quá nên ngất đi một lúc. Khi ông tỉnh lại, ông chứng kiến thấy tất cả chư thiên đang thích thú ăn một cái thân người như ăn một bữa tiệc. Ông thấy cái thân người họ đang hưởng thụ đó là thân của chính ông.
Vào lúc đó, hai vị da-ki-ni phẫn nộ tiến đến gần người em gái của ông lúc đó đang ngồi cạnh ông. Họ lột da bà, xếp thịt, xương và các bộ phận của bà lại thành một đống đồ cúng dường. Một vị thần từ trên trời hiện xuống và ban phước cho thân xác của bà. Rồi các da-ki-ni dâng trái tim của bà cho vị da-ki-ni đứng đầu. Các chư thiên khác ăn tươi nuốt sống những phần thân xác của bà mà không chừa lại một chút gì cả. Do Khyentse cảm thấy thương và buồn vô cùng trước sự biến mất của người em gái. Thông thường, sự cưỡng lại việc cho đi hay mất đi thân xác vật chất là rất mạnh mẽ. Đó là do thói quen bám luyến của chúng ta. Loại bỏ được thói quen bám luyến là một kỳ công tâm linh rất mạnh mẽ.
Tiếp nhận các quán đảnh
Sau đó, họ đi lên một cầu thang bằng pha lê to lớn. Do Khyentse cảm thấy như họ đang trôi bồng bềnh như những mảnh giấy trong gió do không còn những cái thân thô nặng nữa, vì thân xác của họ đã bị các chư thiên ăn mất trên đường đi rồi. Họ bước vào một cung điện vui vẻ và đẹp lạ kỳ. Vẻ đẹp của đường nét cấu trúc, sự phong phú của các chi tiết và những âm thanh tán dương Chánh pháp cũng giống như đã được miêu tả trong những lời ước nguyện của Núi Màu Đồng Vinh Quang.
Ở ngay chính giữa cung điện, Ngài Guru Rinpoche đang ngồi trên một chiếc ngai báu, tỏa những tia sáng ra khắp mọi hướng. Cả đất trời đều đầy những đám mây của các bậc giác ngộ trong thân tướng nam và nữ. Do Khyentse mong ước nhận được sự ban phước của Ngài Guru Rinpoche bằng cách chạm vào Ngài, nhưng ông không làm thế được vì ông không còn thân xác nữa.
Rồi một da-ki-ni có nước da trắng tay cầm một cái sọ người tiến đến gần Do Khyentse. Vị da-ki-ni này giải thích: “Ngài Guru Rinpoche là hiện thân của chư Phật của ba thời. Sự hiện thân của Ngài xuất hiện ở mọi cõi trong vũ trụ, giống như mặt trăng với hình phản chiếu trong vô số chén đựng nước. Giống như hình phản chiếu trong tấm gương, ông cũng là hiện thân của Guru Rinpoche và được phái đi Tây Tạng để phục vụ những chúng sinh là con người hoặc các loài khác và để khám phá, bảo tồn những giáo lý thần bí. Vì ông bị che mờ bởi sự ô uế từ nơi sinh ra của thân xác như huyễn của ông nên thân xác ông đã bị chư thiên dùng như một bữa tiệc. Giờ đây ông có một cái thân bằng ánh sáng với tinh chất của trí huệ. Ông phải tiếp nhận bốn quán đảnh từ Ngài Guru Rinpoche và đem gieo những hạt giống của bốn giai đoạn của các vị thiện tri thức.
Sau đó, tất cả những vị có mặt trong cung điện cử hành nghi lễ trong bảy ngày. Ngài Guru Rinpoche là vị Kim cương sư chủ tọa buổi lễ đó. Vua Trisong Detsen làm phụ tá Kim cương sư, Ngài Guru Choiwang làm thầy tụng niệm, Nyima Trakpa làm thầy nghi lễ, Duddul Dorje và Karma Lingpa làm những vị thầy và Rigdzin Goddem làm vị thầy ban phước. Có nhiều vị thiện tri thức, da-ka và da-ki-ni theo hầu. Lúc kết thúc buổi lễ, Do Khyentse tiếp nhận bốn quán đảnh; các quán đảnh này thanh tẩy những ô uế từ nơi sinh ra của ông. Do Khyentse cũng được giao phó một chiếc hộp nhỏ chứa đựng giáo lý thần bí (bí lục -Terma). Cuối cùng Ngài Guru Rinpoche ban những giáo lý sau đây:
Khi ngươi nhận thức được rằng mọi hiện tướng đều rỗng không,
Thì chẳng cần phải sống biệt cư nữa.
Khi ý nghĩ sai lầm về mọi hiện tướng đã sụp đổ, và
Bản tính bẩm sinh bất biến đã được nhận diện–
Không có sự phân biệt ngay cả với những nhị nguyên tinh tế, hay
Sự bám luyến ngay cả đối với những đức hạnh bị ô uế –
Hãy duy trì trạng thái thực sự vững chắc của sự thanh khiết nguyên thủy.
Khi ngươi nhận ra được mọi hiện tướng chỉ là những giấc mộng,
Thấy mọi đối tượng của giác quan chỉ như là ảo ảnh.
Trong vòng luân hồi vô minh, không có gì để chấp nhận hay từ chối.
Hãy luôn thực hiện những hoạt động Bồ tát bao la.
Hãy hiểu rõ rằng những nhận thức về ngày như là tính phát sáng của pháp thân.
Hãy hiểu rõ rằng những nhận thức về đêm như sức mạnh của báo thân.
Hãy hợp nhất con và mẹ – giác tỉnh nội tại và cõi tối thượng.
Hãy tiến bộ qua 10 giai đoạn và năm con đường với tốc độ của mặt trời và mặt trăng.
Khi ngươi hoàn thiện cực lạc bất biến,
Ngươi ở trong trạng thái nhất như với ta.
Không chuyển động, không miêu tả, không biến đổi
Là những phương thức cuối cùng để giải thoát – hãy ý thức rõ về tất cả những điều này.
Guru Rinpoche cười to ba lần, to đến nỗi Do Khyentse cảm thấy như cả lục địa rung động theo tiếng cười của Ngài. Sau khi được Guru Rinpoche ban phước và những lời chỉ giáo, Khyentse và những người đi cùng từ giã để lên đường. Rồi vị da-ki-ni có nước da trắng lại tiến đến gần và nói:
Giống như mặt trời và những tia sáng của nó,
Ngươi, sự hiện thân, và Ngài Guru Rinpoche, nguồn gốc của sự hiện thân, là không thể tách rời nhau.
Nhưng bởi vì lý duyên sinh,
Giờ đây ngươi xuất hiện như là người đứng đầu và đoàn tùy tùng.
Trong tương lai, ngươi sẽ lại hợp nhất như nước với nước.
Sau đó, một vị thần phẫn nộ với đôi mắt mở rộng nói với Do Khyentse:
Không lưu luyến những nơi chốn và những đối tượng nhục dục
Hãy hoàn thành những công việc được giao phó.
Ta cam đoan sẽ luôn bảo vệ cho ngươi.
Cầu cho ngươi đạt được Phật quả, điều phục được tam giới.
Trở lại trần thế
Do Khyentse và các bạn đồng hành đi ra khỏi cổng. Sau đó, họ đi đến các cõi tịnh độ của Đức Phật Vô Lượng Quang, Đức Quán Thế Âm và Ngài Tara. Cuối cùng họ trở về thế gian. Đầu tiên, khi vẫn còn ở trong cái thân tinh thần, Do Khyentse đến gặp vị bổn sư của mình, Ngài Dodrupchen Rinpoche đệ nhất, ở tại Yarlung Pemako, một hẻm núi ở Thung lũng Ser. Ngài Dodrupchen ban thêm cho ông nhiều lời dạy và quán đảnh.
Sau đó, ông trở lại thân xác mình. Ông nhìn thấy một phụ nữ mặc áo đỏ – người đang bảo vệ cho thân ông – bước ra từ thân ông và biến mất vào trong không khí. Ông cảm thấy ông đang chạm vào thân của mình, và ngay lập tức ông ở trong thân vật chất của mình. Trong một thời gian khá dài, ông phải cố gắng nhiều để có thể nhìn thấy, nói và cử động. Rồi với sự cố gắng hết sức mình, ông đã có thể cử động tay chân một chút, và các đệ tử đang chờ đợi vội chạy đến giúp ông. Một thầy thuốc người Trung Hoa cho ông một ít thuốc và trong vòng khoảng một tháng, ông từ từ được chữa khỏi bệnh đậu mùa và mạnh khỏe lại.
Theo người ta kể lại, Do Khyentse đã đi đến nhiều thế giới khác nhau trong nhiều dịp khác. Đôi khi ông đi đến những cõi tịnh độ, gặp chư Phật và các vị đạo sư. Đôi khi ông đi đến những miền đất và những cõi chúng sinh bí ẩn trên thế gian để phục vụ họ. Đôi khi ông đi trong thân xác của mình bằng cách biến mất rồi xuất hiện trở lại và đôi lúc ông thoát xác mà đi như đã được miêu tả trên đây.