Tiểu sử của NANGSA OBUM
Sự ra đời và thời thơ ấu
Nangsa Obum sinh tại Tây Tạng, ở tỉnh Tsang miền Nyang Thượng, hạt Gyaltse trong một gia đình bình thường được gọi là Jangpe Kur Nangpa. Ở nơi đó có một người đàn ông tên là Kunzang Dechen, và một người đàn bà là Nyangtsa Seldron. Không nghĩ tưởng tới lợi lạc cá nhân, họ cùng thực hành mãnh liệt không gián đoạn sadhana1 của Tara trong rừng Khadira.2
Việc thực hiện khoảng 100.000 lần thực hành này đưa tới kết quả là người đàn bà này có rất nhiều giấc mộng tốt lành. Bà thuật lại một trong những giấc mơ này cho chồng và nói:
“Tôi mơ thấy trong cõi linh thánh3 của Đức Tara,
Trên một ngai tòa bằng vỏ ốc xà cừ,4 một vị Phật nữ an tọa,
Bậc Bảo trợ trong quá khứ, hiện tại, và tương lai.
Từ chữ chủng tự TAM5 trong tim Tara,
Phát ra một ánh sáng phóng tới đỉnh trái tim tôi,
Và đi vào kinh mạch trung ương,6 tan hòa vào giữa tim tôi.
Một cành sen xuất hiện trong thân tôi,
Những con bướm bay nhẹ nhàng hút mật từ những bông sen.
Giấc mộng này hẳn là một điềm lành.
Xin cho tôi biết ý nghĩa của nó.”
Kunzang Dechen rất vui mừng và trả lời:
“Người bạn đời của tôi, xin hãy lắng nghe!
Các giấc mộng có thể là những ảo tưởng,
Nhưng đây là sự tiên tri!
Ánh sáng chiếu rọi từ chữ TAM trong trái tim của Arya (Thánh) Tara,
Tịnh quang tan hòa vào tim bà,
Có nghĩa là những gia hộ của Phật nữ của Ba Thời đã đi vào tim bà.
Bông sen đó đang bừng nở trong thân bà,
Có nghĩa là bà là nữ hoàng của các dakini,
Việc nó được những con bướm hút mật vây quanh,
Có nghĩa là cả chúng sinh thanh tịnh lẫn bất tịnh
Sẽ được hưởng lợi lạc nhờ thân, ngữ và tâm của bà.
Khi còn trẻ và duyên dáng, bà không có con trai.
Giờ đây tóc bà bạc trắng và sẽ có một cô con gái.
Nó sẽ tuyệt vời hơn bất kỳ đứa con trai nào!
Hãy cầu nguyện và cúng dường mọi nơi!
Đây là một giấc mộng tuyệt đẹp, hãy vui mừng!”
Vì thế họ cúng dường Tam Bảo,7 bố thí cho những hành khất, và cúng dường Tăng đoàn để xin cầu nguyện cho họ. Vào ngày thứ Năm, mồng mười, là ngày dakini, tháng Thân, năm Ngọ, Nyangtsa Seldron hạ sinh một bé gái.
Khi đứa bé uống miếng sữa mẹ đầu tiên, nó phun sữa lên trời và nói:
“Kính lễ Arya Tara, vị phối ngẫu của ba Thời!
Con được sinh ra để cứu giúp tất cả chúng sinh.
Chính nhờ thiện tâm của Ngài mà hạnh phúc và may mắn có thể đến với thế gian này.
Bởi sự chói ngời rực rỡ của hoạt động của Ngài
Một trăm ngàn chúng sinh sẽ đi vào Pháp!”
Những người nghe cô nói những lời này đã đặt tên là cho cô là Nangsa Obum. Mỗi tháng cô lớn nhanh như một đứa trẻ bình thường phát triển trong một năm. Cô bé xinh đẹp và tốt lành như con gái của những vị trời. Cha mẹ cô rất sung sướng và thường tán thán thân, ngữ và tâm của cô:
“Con gái tốt lành của cha! Con gái tốt lành của mẹ!
Con làm đẹp như một vật trang sức.
Hãy lắng nghe, Nangsa Obum, mọi vẻ đẹp của thế giới được kết hợp trong con.
Ngay khi nhìn thấy con, người ta cảm thấy sung sướng,
Thân con đẹp như con gái của một thiên thần.
Giọng nói vô song của con thì như bài ca của Trời
Phạm Thiên (Brahma),8
Những tiếng chim ngọt ngào nhất cũng không thể sánh kịp.
Ngay khi nghe con nói người ta cảm thấy sung sướng,
Xin tán thán giọng nói ngọt ngào của con.
Con có lòng sùng mộ đối với các guru và tất cả những Bậc Vĩ Đại,
Con có lòng bi mẫn đối với tất cả chúng sinh,
Ngay khi con có một niệm tưởng, nó mang lại hạnh phúc cho những người khác.
Xin tán thán tâm của con gái Nangsa.
Đối với hai kẻ già nua như cha mẹ.
Thì thật tuyệt vời khi có một đứa con gái như con.
Có con thì giống như một con lừa có một con la,
Hay một con trâu già có một bò yak cái.”
Sau đó Nangsa trả lời:
“Kính lễ mẹ của chư Phật trong Ba Thời!
Xin hãy nghe con, cha và mẹ!
Không một chút nghi ngờ, cha mẹ là phụ mẫu của con,
Nhưng con cũng có những cha mẹ bên ngoài, bên trong, và bí mật.
Cha bên ngoài là Kunzang Dechen.
Mẹ bên ngoài là Nyangtsa Seldron.
Cha bên trong là Avalokitesvara.9
Mẹ bên trong là Tara Trắng và Xanh.
Cha bí mật là Mahayana Mahasukha, “Đại Lạc của Đại Thừa,”
Mẹ bí mật là Prajna,10 trong trẻo và thanh tịnh.
Kính lễ những cha mẹ bên ngoài, bên trong, và bí mật trong sự hợp nhất của đại lạc và tánh Không.”
Cô trì tụng suốt ngày đêm các thần chú của Đức Avalokitesvara và Tara Trắng và Xanh. Cô rất bi mẫn và minh triết. Tất cả các Tantra (Mật điển) và Sutra (Kinh điển) được kết hợp trong cô. Cô đi ngủ trễ và thức dậy sớm, giúp đỡ cha mẹ trong việc đồng áng.
Hôn nhân
Gia đình trở nên rất giàu có, và năm cô mười lăm tuổi, nhiều người ở khắp xứ Tây Tạng muốn cầu hôn với cô.
Nhưng đối với Nangsa thì giáo lý của Đức Phật là vấn đề quan trọng nhất. Cô luôn luôn nghĩ tưởng tới việc thực hành thiền định và không nghĩ gì về chuyện hôn nhân. Cha mẹ cô không có đứa con nào khác, nhưng Nangsa thì còn hơn 100.000 đứa con. Cô có thể thực hiện cả việc thiền định lẫn công việc thế tục. Họ không chấp nhận người cầu hôn nào và giữ cô ở nhà. Cô ở với cha mẹ một thời gian dài, và sau đó có một người quý phái rất cục cằn quyết định tìm vợ cho con trai Dragpa Samdrub của ông ta.
Một hôm có một lễ hội trong thị trấn địa phương nơi một Lạt ma ban lễ nhập môn, và mọi người đi tới đó. Nangsa cũng quyết định có mặt cùng cha mẹ cô bởi cô muốn tham dự lễ nhập môn này.
Cô ăn mặc lộng lẫy và đẹp tới nỗi mọi người nhìn thấy cô hầu như đều ước muốn cô. Họ ngạc nhiên rằng có thể có một phụ nữ đẹp như thế. Khuôn mặt cô như một vầng trăng sáng. Tóc cô óng mượt như chồi lúa mới, được cha mẹ cô chải chuốt và được tô điểm. Cô có những bông tai và chuỗi hạt vào loại đẹp nhất. Không thiếu một món gì trong trang phục của cô. Cô mang nhiều vật để cúng dường vị Lạt ma ban lễ nhập môn và những món này được một người hầu vác trên vai, còn cô cưỡi ngựa đi trước. Họ cũng mang nhiều thực phẩm để dùng trong ngày.
Khi họ tới tu viện để tham dự lễ hội, trước hết họ cúng dường, khẩn cầu lễ nhập môn, lễ lạy và đi nhiễu. Rồi họ đi tới nơi có nhiều phụ nữ đang coi vũ hội.
Trên một ban công cao trong khu vực của Lạt ma, Quốc vương xứ Rinang là Dragchen đang coi lễ hội cùng một đoàn quần thần đông đảo. Mặc dù có vẻ đang coi vũ hội, nhưng nhìn thấy tất cả những phụ nữ thì nhà vua đành chịu thua không thể rời mắt khỏi họ. Khi phát hiện ra Nangsa, vua nói thầm điều gì đó vào tai người hầu cận là Sonam Palkye, ông ta đi vào đám đông và vồ chụp Nangsa như một con chim diều hâu tấn công một con thỏ, hay như một con chim ưng tấn công một chú chim con. Ông ta dẫn cô lại cho vua xứ Rinang, nhà vua nắm chặt viền áo cô và tay kia đưa cho cô một tô bia chang11 và nói:
“Cô có một thân hình tuyệt đẹp,
Một giọng nói hấp dẫn,
Cô có một hương thơm quyến rũ,
Chắc cô có một cái miệng ngọt ngào,
Một làn da mịn màng và có đủ năm phẩm tính12 đáng ao ước,
Cô là con gái của ai?
Cô là một thiên nữ?
Hay con gái của một Naga?13
Hay một nhạc sĩ phi nhân cõi trời?
Hãy lại đây, kể cho ta nghe đừng dấu diếm!
Cô gái, cha cô là ai và mẹ cô tên gì?
Cô ở tỉnh nào và gia đình có tên gì?
Ta là người xứ Nyang Thượng ở Rinang.
Ta là vị lãnh đạo của miền này,
Danh hiệu ta vang xa như sấm sét trên vương quốc của ta.
Ta có một con trai, Dragpa Samdrub, kẻ kế thừa ta,
Bề ngoài nó như một ngọn núi sắt,
Nhưng bên trong nó là một viên ngọc.
Nó sắp mười tám tuổi và cô nên lấy nó.”
Nangsa nghĩ: “Ồ không, vẻ ngoài của ta đang chống lại ta. Ta muốn thực hành Pháp nhưng giờ đây có vẻ ta sẽ phải lấy hoàng tử này.”
Rồi cô hát bài ca này:
“Bà Mẹ Chiến thắng Vĩ đại, Arya Tara,
Xin đoái tưởng tới đứa con gái tàn nhẫn nghịch đạo này,
Xin lắng nghe, Vua Dragchen!
Tôi người xứ Nyang Thượng, miền Gyaltse,
Nhà tôi được gọi là Jangpe Kur,
Tên cha tôi là Kunzang Dechen,
Tên mẹ tôi là Nyangtsa Seldron,
Tôi tên là Nangsa Obum,
Tôi là con gái của thường dân.
Cây Tagma độc hại có một bông hoa đẹp
Nhưng bởi nó có xuất xứ từ một loại cây độc
Nó không thích hợp để chưng trên bàn thờ.
Tương tự như vậy có một loại lam ngọc phẩm chất kém
Nó không xứng đáng để đặt cạnh loại hảo hạng!
Mặc dù những con chim con bay lượn rất tuyệt
Chúng không thể bay cao như những chú diều hâu!
Mặc dù cô gái Nangsa có vẻ xinh đẹp
Làm sao nó thích hợp để làm một cô dâu của một nhân vật quan trọng?
Xin để tôi đi!
Obum muốn tu học Giáo Pháp!”
Sau đó người hầu đưa cho nhà vua vài miếng lam ngọc được xâu trên một sợi lụa đỏ và một mũi tên với những giải lụa năm màu.14 Người hầu nói với nhà vua:
“Mặc dù người ta nói mình không muốn,
Nhưng bên trong thì mới là tất cả những gì người ta nghĩ tới,
Đây là một dấu hiệu của một người muốn làm chồng của ai đó.
Mặc dù một người đàn bà có thể thề thốt mình không muốn làm một việc như thế,
Nhưng điều cô thực sự muốn thì chìm sâu bên dưới,
Đây là một dấu hiệu của một người đàn bà muốn làm vợ của ai đó.
Người đàn bà này không nói rằng mình muốn điều đó,
Trước mặt tất cả những người này,
Vì thế ngài nên quấn lam ngọc quanh cổ cô
Và tặng cho cô ta mũi tên có trang điểm giải lụa này, và hoàn tất mọi sự.”
Vì thế nhà vua nghĩ rằng hẳn là đúng như vậy, và ông ta nói:
“Cô Nangsa xinh đẹp, trông cô như một thiên nữ.
Ta là Dragchen và giọng nói của ta âm vang như sấm.
Ta là kẻ có quyền lực nhất trong vùng này,
Vì thế nếu cô không nghe những gì ta nói thì cô thực là ngu ngốc.
Chúng ta sẽ không cho cô thực hành Pháp.
Mặc dù cô nói cô muốn ở nhà,
Chúng ta không muốn để cô ở đó.
Mặc dù mặt trời ở trên trời cao
Tia nắng của nó vẫn rọi vào các bông sen khiến chúng mọc trên mặt đất.
Mặc dù có một khác biệt giữa cao và thấp,
Qua mối liên hệ nghiệp thích đáng
Cả hai có thể làm lợi ích lẫn nhau.
Mặc dù mũi tên thì dài và mảnh mai và
Cây cung thì tương đối ngắn,
Cả hai làm việc với nhau một cách hòa hợp.
Mặc dù một đại dương thì lớn và con cá thì nhỏ,
Chúng làm lợi lạc lẫn nhau qua mối liên hệ hòa hợp.
Mặc dù con trai ta rất mạnh mẽ và
Cô chỉ là một phụ nữ bình thường,
Nhưng điều đó không thành vấn đề;
Do bởi mối liên hệ nghiệp hoà hợp của các con, các con nên lấy nhau.”
Nhà vua đưa những giải lụa năm màu và lam ngọc lên cao và đặt chúng lên đầu cô và nói ông sẽ chọn cô làm vợ của con trai ông, và tuyên bố rằng Dragpa Samdrub đã chọn được cô dâu, ông nói:
“Giờ đây không có người quyền thế nào được phép mang cô ta đi.
Những người yếu ớt không thể đánh cắp cô.
Những người ở giữa không có quyền với cô.
Cũng thế, không ai có thể nói cô ta bị đưa lên trời, hay bị chôn trong lòng đất,
Đây là người vợ mới của hoàng tử xứ Rinang.
Mọi người nên hiểu giờ đây ta đang chăm sóc Nangsa.
Không nên nhầm lẫn về điều đó.”
Khi nói như thế, sau khi đặt lam ngọc và lụa lên đầu Nangsa, nhà vua nói với cô và người hầu của cô: “Bây giờ cô nên giữ những món này và cất dấu chúng khi trở về nhà cha mẹ.”
Thế là Dragchen và quần thần trở về dinh, còn Nangsa trở về nhà cha mẹ cô. Dragchen bắt đầu chuẩn bị cho hôn lễ – làm bia chang, đặt làm nữ trang và tiền cưới cô dâu. Rồi với tất cả những món này họ khởi hành tới nhà Nangsa.
Khi họ tới nơi, người hầu cận Sonam Palkye tiến tới gõ cửa. Mẹ của Nangsa nhìn thấy nhà vua và toàn thể đoàn tùy tùng, bà nói với chồng: “Hãy nghe tôi, Kunzang Dechen. Dragchen và toàn thể đoàn tùy tùng của ngài đang ở trên lưng ngựa tới gần nhà ta. Sẽ thật tốt nếu chúng ta mời họ vào nhà.” Ông trả lời: “Hãy nghe tôi, Nyangtsa Seldron, hãy nghe Kunzang Dechen! Nhà vua ở trước cửa nhà ta thì là một dấu hiệu xấu như một con cú ngồi trên mái nhà. Ông ta là một nhân vật quan trọng. Hãy hỏi ông có công việc gì, sau đó, nếu ông ta không đi, có lẽ chúng ta sẽ phải mời ông ta vào nhà.” Thế là Nyangtsa Seldron đi ra cửa, dâng cho họ bia chang, và hỏi lý do họ tới đây. Dragchen giải thích những gì xảy ra trong Pháp hội. Mẹ Nangsa rất sung sướng và vội thuật lại cho chồng, ông cũng rất vui vì sự kiện này.
Ông nói: “Đây là lý do duy nhất họ tới đây. Bây giờ con gái chúng ta chắc chắn đã tìm được một chỗ tốt để tới. Không nơi đâu tốt hơn ở Rinang, vì thế nếu Dragchen thỉnh cầu, nhất định là tôi sẽ hứa gả Nangsa. Hãy mời họ vào gặp tôi!”
Những viên chức đi lên gác. Cha mẹ Nangsa dâng tặng họ những gì tốt nhất mà họ có, và nhà vua đưa ra bia chang, một số nữ trang và tiền cưới cô dâu. Ông nói:
“Cô gái Nangsa và cha mẹ cô, hãy lắng nghe!
Từ hôm nay trở về sau vua Dragchen xứ Rinang đã cưới vợ cho con trai là Dragpa Samdrub.
Quý vị không thể nói con gái quý vị đã bay lên trời hay bị chôn trong lòng đất.
Không người quyền thế nào được phép đem cô ta đi,
Những người yếu đuối không thể đánh cắp cô,
Và những người ở giữa không có quyền với cô.
Quý vị cũng không thể từ chối gởi cô ta cho chúng tôi.
Nangsa cũng không thể nói sẽ không đi với chúng tôi.
Giờ đây cô là hoàng hậu của vua xứ Rinang.
Trong thời gian ba ngày, năm trăm kỵ mã sẽ tới đón cô!
“Cũng hãy nghe điều này! Khi cô về cung điện của ta, cô sẽ chói sáng như mặt trăng giữa những vì sao. Cô là người xinh đẹp nhất trong tất cả những phụ nữ trong đám đông trong phiên chợ. Cô có nhớ lam ngọc và những giải lụa ta đã ban cho cô? Hãy đem chúng lại đây. Ta yêu cầu cô cất dấu những vật này bởi nếu cha mẹ cô nhìn thấy những vương miện họ có thể giận dữ, không biết cô lấy chúng ở đâu. Tuy nhiên, bây giờ là lúc để phô bày chúng.”
Nangsa đem chúng lại, và Dragchen trình diện chúng một lần nữa một cách chính thức trước mặt cha mẹ cô. Sau đó nhà vua và đoàn quần thần khởi hành về dinh.
Nangsa không muốn lập gia đình và không muốn đi với những người này, chỉ muốn thực hành Pháp. Vì thế cô quyết định nói chuyện với cha mẹ. Cô nói với họ: “Mẹ và cha, xin hãy nghe con! Cha mẹ đã thật tốt lành khi ban cho con thân thể này. Khi nhìn mọi sự gặp gỡ chấm dứt trong cảnh phân ly, con không muốn lập gia đình với người này, Dragpa Samdrub. Tam Bảo thì siêu vượt sự hiện hữu tương đối này. Con muốn phá vỡ cam kết với người chồng này và thực hành Pháp. Ngay cả của cải của một người giàu có cũng không cứu được – họ có thể mất nó. Con sẽ không tồn tại như tài sản của vua xứ Rinang.
“Có bảy báu vật15 siêu vượt lẽ vô thường. Con, người phụ nữ này, chỉ muốn những báu vật này. Con muốn thực hành Pháp. Ngay cả những ngôi nhà xây cất kiên cố cuối cùng rồi cũng phải đổ nát; con sẽ không ở trong ngôi nhà của vua Rinang. Con muốn sống trong một hang động trong sự cô tịch, một nơi không sụp đổ như ngôi nhà do con người làm ra.”
Cha mẹ cô trả lời: “Con là người giống như một thiên nữ, con rất xinh đẹp, nhưng hãy lắng nghe cha mẹ! Con trai của vua xứ Rinang có một trái tim bốc lửa; nếu con không lấy anh ta, anh ta sẽ nổi giận. Anh ta là người uy quyền nhất trong thế gian: chớ có nói không cưới hắn. Nếu con cứ khăng khăng sẽ thực hành Pháp và lên đường bây giờ, anh ta sẽ giết cha mẹ. Nếu con đi thực hành Pháp và hắn giết cha mẹ thì điều đó không đưa tới giác ngộ được. Vì thế hãy cưới hắn và đừng đi thực hành Pháp.”
Cha mẹ cô nói với sự tuyệt vọng tới nỗi Nangsa phải hứa sẽ không bỏ đi và không nài nỉ thực hành Pháp.
Sau đó những người đại diện cho Dragpa Samdrub tới đón Nangsa. Cha mẹ cô đã phân chia những vật dụng, cho cô tất cả tài sản của họ. Trước khi cô ra đi họ khuyên cô:
“Con là con gái còn tốt hơn một ngàn con trai!
Hãy lắng nghe cha mẹ!
Khi con đi Rinang cha mẹ cho con những vật này: Pho tượng Tara bằng lam ngọc,
Cũng như những ảnh tượng của Đức Phật và những stupa đắt tiền.
Cha mẹ cho con nhiều châu báu: san hô, lam ngọc, vàng và bạc vô giá.
Cha mẹ cho con lụa và quần áo thêu kim tuyến.
Cha mẹ cho con gạo, lúa mạch và thực phẩm khác,
Cha mẹ cho con tất cả những thứ này để mang đi Rinang.
Cha mẹ phái Dzompa Kyi đi theo phục vụ con.
Khi con sống với gia đình Rinang
Hãy thức dậy lúc gà gáy!
Khi con sống với gia đình Rinang
Hãy như con chó giữ cửa là kẻ đi ngủ sau cùng!
Khi con sống với gia đình Rinang
Con phải kính trọng chồng con và cha chồng,
Đừng nghĩ tới mình.
Hãy làm việc cho những người khác và xấu hổ về những lỗi lầm của mình!
Dragpa Samdrub là chồng con do bởi nghiệp quá khứ của con.
Con sẽ sống với anh ta trọn đời –
Hãy phục vụ anh ta tốt đẹp!16
Hãy tử tế và tốt lòng với mọi người trong nhà của gia đình Rinang.
Cha mẹ cầu mong thường được gặp con!”
Sau khi nghe tất cả những lời này, Nangsa lên đường với nhóm viên chức. Họ đi bằng ngựa, trang trí rực rỡ; trên đường đi có vũ hội, âm nhạc và ca hát. Khi họ tới nơi, những buổi lễ được tổ chức kéo dài nhiều ngày.
Sau đám cưới cô sống với Dragpa Samdrub trong bảy năm. Sau đó một bé trai ra đời, nó đẹp như một vị trời con và được đặt tên là Lhau Darpo. Một buổi tiệc lớn được tổ chức để kỷ niệm việc đứa bé ra đời. Mọi người nói Hoàng hậu Nangsa không có năm phẩm tính xấu17 mà có tám phẩm tính tốt18 của một người phụ nữ. Cô cần cù trong việc phụng sự cha chồng, chồng, và con trai. Cô rất tử tế đối với những đầy tớ nam cũng như nữ và luôn giúp đỡ mọi người. Cô làm việc chăm chỉ trong các cánh đồng, may vá giỏi và nấu ăn ngon. Mọi người trong vương quốc Rinang, dù thuộc giới thượng lưu hay bình dân, cũng đều hết sức kính trọng Hoàng hậu Nangsa, không chỉ vì cô đã có một hoàng nam tuấn tú, mà là bởi họ bằng lòng với mọi việc cô làm.
Cái chết
Nangsa xinh đẹp và Dragpa Samdrub yêu cô tới nỗi ông không bao giờ rời cô, dù chỉ một giờ. Bởi cô rất tốt nên Dragchen và Dragpa Samdrub tính đến việc giao cho cô những chìa khoá của tòa nhà, điều đó có nghĩa là ban cho cô uy quyền trên tất cả các tài sản của cung điện. Uy quyền này trước đây tuỳ thuộc vào em gái của Dragchen là Ani Nyemo, và bà ta không muốn trao đặc quyền này cho Nangsa. Nangsa kính trọng Ani Nyemo, nhưng tất cả những người khác không thích bà và nói xấu sau lưng bà ta vì bà có tánh xấu. Ani Nyemo luôn nói những điều kinh khủng về Nangsa với nhà vua, chồng cô, Lhau Darpo, và những người đầy tớ. Bà không đưa cho Nangsa chìa khóa và thậm chí cho cô thực phẩm xấu và không cho quần áo mới. Bà ta giữ những vật phẩm tốt cho mình. Điều này làm cho Nangsa rất buồn, và hơn bao giờ hết, từ tận đáy lòng cô ước muốn từ bỏ luân hồi sinh tử và thực hành Chân Pháp; nhưng ngay cả điều này cô cũng không thể nói cho chồng biết.
Một hôm cô đang nghĩ về điều này trong khi cho con bú trong phòng, và cô bắt đầu kêu khóc và hát bài ca này cho con trai:
“Con quy y Lạt ma và Tam Bảo,
Guru, Deva, Dakini,19 xin gia hộ cho con!
Các vị Bảo trợ, xin ngăn cản những chướng ngại phát sinh!
Người đàn bà này ước muốn trở nên thành tựu trong Pháp!
Con trai của mẹ, con cái như sợi thừng kéo một người đàn bà vào luân hồi sinh tử.
Lhau Darpo, con khiến cho mẹ không thể rời bỏ,
Và mẹ không thể mang con theo bởi điều này sẽ gây chướng ngại cho sự thực hành của mẹ.
Mẹ muốn thực hành Pháp nhưng thay vào đó mẹ kết hôn.
Mẹ cố giúp đỡ cha con, nhưng mẹ làm cho Ani Nyemo ganh tị.
Mẹ không thể trở về nhà cha mẹ, bởi mẹ đã lập gia đình.
Khổ thân tôi chưa,” cô kêu khóc buồn bã.
“Thân thể đẹp đẽ của mẹ, con, con trai của mẹ, và những người khác trong thân quyến là những chướng ngại lớn trong việc mẹ thực hành Pháp.
Nhưng Ani Nyemo thì giống như guru của mẹ bởi bà làm cho mẹ quay trở về Giáo Pháp.
Khi con có thể tự xoay sở,
Nếu mẹ còn sống,
Nangsa sẽ lên đường tới Giáo Pháp.
Obum sẽ không ở đây.
Cô ta sẽ ở trong một ẩn thất đơn sơ.”
Sau đó cô mang đứa trẻ tới hoa viên. Chồng cô đang gội đầu ở đó. Sau khi gội xong ông đi tới và kê đầu vào lòng cô và ngủ thiếp đi. Trời đang vào thu, và hầu hết những bông hoa trở nên khô héo và rụng xuống mặt đất; một ít bông hoa mới nở có nhiều con ong vây quanh. Nangsa nhìn chúng và nghĩ:
“Mặc dù tôi thương cha mẹ,
Tôi phải xa lìa họ.
Mặc dù tôi muốn giúp đỡ chồng tôi,
Nhưng bởi Ani Nyemo nên tôi không thể.
Mặc dù tôi muốn thực hành Pháp,
Tôi không thể do bởi đời sống thế tục này.”
Sau đó cô bắt đầu khóc. Một giọt nước mắt rơi xuống tai Dragpa Samdrub. Ông thức dậy và nhận thấy tiếng khóc của cô thật lặng lẽ. Ông nói:
“Hoàng hậu Nangsa, nàng rất đẹp
Ta chẳng bao giờ ngắm nàng cho đủ.
Hoàng hậu Nangsa, xin lắng nghe ta!
Chúng ta đủ giàu để sắm cho nàng bất kỳ châu báu nào nàng có thể ao ước.
Chúng ta biết rõ sự khác biệt giữa hành vi thuộc về Pháp và Sinh tử.20
Chúng ta có trong lòng một bé trai xinh đẹp.
Nàng là Hoàng hậu xứ Rinang.
Không có lý do nào để than khóc.
Tại sao nàng khóc, hãy nói cho ta sự thực?
Bất kỳ điều gì sai trái ta sẽ làm cho nó đúng đắn!”
Nangsa nghĩ: “Trước đây ta chưa từng nói cho cha chồng và chồng ta về sự ganh tị của Ani Nyemo, bởi điều đó sẽ gây rắc rối cho gia đình. Giờ đây chồng ta đang hỏi tại sao ta khóc. Trước đây ta không thể nói với chồng ta rằng ta muốn đi để thực hành Pháp, nhưng giờ đây có lẽ ta có thể. Hơn nữa nếu ta nói với chàng có lẽ Ani Nyemo sẽ nhận ra rằng ta không cố gắng lấy chìa khóa từ bà ta.” Khi nghĩ điều này, cô bắt đầu bài ca này:
“Người cha duy nhất, con đảnh lễ dưới chân Guru!
Con đảnh lễ các Dakini, Mẹ của chư Phật!
Nghiệp đã làm cho ngài, Dragpa Samdrub, làm chồng thiếp,
Vì thế xin lắng nghe những gì thiếp đang hát!
Khi thiếp sống với cha mẹ thiếp ở quê hương
Khuôn mặt và thân hình đẹp đẽ của thiếp
Trở thành một chướng ngại cho việc thực hành Pháp,
Ngăn trở thiếp thực hành và dẫn dắt thiếp tới ngôi nhà này
Nó không phải của thiếp.
Khi thiếp trở thành Hoàng hậu của Rinang
Thiếp tôn kính gia đình và những đầy tớ;
Thiếp đặc biệt kính trọng Ani Nyemo.
Thiếp không do dự khi nói rằng thiếp luôn luôn kính trọng bà.
Nhưng ngay cả như thế bà rất tàn nhẫn với thiếp.
Thiếp cho bà bia chang còn bà cho thiếp nước.
Theo bà thì thiếp là một người câm.
Nếu thiếp trả lời người khác thì thiếp là kẻ ba hoa.
Nếu thiếp đi ra ngoài, thiếp là một gái điếm.
Nếu thiếp không ra ngoài, thiếp như một hình tượng trong ngôi chùa, chẳng bao giờ chuyển động.
Khi thiếp nhìn khuôn mặt tốt lành của phu quân của thiếp, Dragpa Samdrub,
Thiếp cho rằng mình thích giúp ngài trọn đời thiếp.
Khi thiếp nhìn Lhau Darpo
Thiếp nghĩ thiếp sẽ làm việc trong Sinh tử.
Khi thiếp nhìn những đầy tớ của chúng ta
Thiếp nghĩ rằng thiếp sẽ còn làm vợ của vua xứ Rinang.
Khi thiếp nghe Ani Nyemo nói một cách hằn học về thiếp
Thiếp nghĩ tới việc cãi lại bà,
Nhưng rồi thiếp nghĩ tưởng về lẽ vô thường.
Thiếp nghĩ thiếp sẽ thực hành Pháp.
Thiếp không có điều gì là thiết yếu cho đời sau.
Thiếp không có điều gì là thiết yếu cho đời sau bởi
Thiếp không có cha mẹ.
Thiếp hát bài ca này cho họ
Thiếp sẽ rất sung sướng khi được gặp họ.”
Sau đó Dragpa Samdrub nói: “Nangsa, khanh đang nghĩ về song thân của khanh bởi khanh không gặp họ quá lâu. Vì thế ta sẽ đưa khanh đi gặp họ ngay. Ta không biết có thật là Ani Nyemo ganh tị hay không, nhưng nếu đúng như thế ta sẽ nói chuyện với bà. Dù sao chăng nữa, bây giờ là lúc cắt cỏ và phơi khô. Ba ngày nữa chúng ta sẽ khởi hành, vì thế chúng ta sẽ phải mướn thêm nhân công bên ngoài. Khanh hãy tới gặp Ani Nyemo để lấy những lưỡi hái.”
Khi bắt đầu việc phơi cỏ, Ani Nyemo đi cùng với Nangsa tới coi sóc các người làm công. Nangsa đang đứng ở đó trông coi thì hai yogi tiến lại gần. Họ từ Tingri tới, một guru và một đệ tử của ngài. Khi họ nhìn thấy Nangsa, họ hát bài ca này:
“Con kính lễ cha Guru!
Xin đưa tất cả chúng sinh ra khỏi Sinh tử luân hồi!
Xin cho chúng tôi ít thực phẩm đổi lấy một vài Giáo Pháp.
Tấm thân này của cô giống như một cầu vồng ở xa:
Nó có nhiều màu sắc nhưng không có thực chất thường hằng.
Giờ đây là lúc thực hành Pháp.
Thân thể đẹp đẽ của cô thì đáng yêu như một con vẹt mào,
Nhưng cho dù cô có một giọng nói hấp dẫn
Những điều cô nói thì vô nghĩa.
Giờ đây là lúc thực hành Pháp.
Cho dù sắc đẹp của cô nổi tiếng như một con rồng
Nó không có ý nghĩa.
Giờ đây là lúc thực hành Pháp.
Cho dù cô đẹp như một bức tranh
Sắc đẹp này không có giá trị đích thực.
Giờ đây là lúc thực hành Pháp.
Khi kẻ thù vĩ đại vô thường tới kêu đòi cô,
Cô sẽ không thể trốn thoát,
Cái chết sẽ không cho cô một phút giây trì hoãn.
Cái chết không quan tâm gì tới sắc đẹp của cô.
Cho dù cô có quyền lực của một vị vua
Cô không thể ngăn cản cái chết.
Cho dù cô là một lực sĩ chạy bộ rất nhanh
Cô không thể thoát khỏi cái chết.
Giờ đây cô có một thân người quý báu21
Và đây có lẽ là cơ hội duy nhất của cô để thực hành Pháp.
Cô chớ có chết mà không thực hành Pháp.”
Nangsa nghĩ: “Họ đang hát cho ta.” Cô tràn ngập cảm xúc và cảm thấy muốn cúng dường các yogi, nhưng Ani Nyemo đang có mặt ở đó và cô sợ bà ta không cho phép. Vì thế cô nói với các yogi: “Xin lên trên kia và quý vị sẽ thấy Ani Nyemo, người đàn bà với khuôn mặt nâu xấu xí.”
Họ đi tới chỗ Ani Nyemo và hỏi xin bà ít thực phẩm. Ani Nyemo rất giận dữ, bà ngưng làm việc, đứng dậy và nói: “Những hành khất nghèo hèn, đừng tới gần tôi! Vào mùa hạ các người đi xin bơ và thực phẩm, vào mùa đông các người hỏi xin bia chang và say rượu. Nếu sống trong núi các người không thiền định. Nếu ở trong thị trấn các người không làm việc. Nếu có khả năng các người sẽ trở thành những kẻ cướp thực sự; nhưng thay vào đó các người là những tên trộm tầm thường, dối láo và trộm cắp. Các người giả bộ dạy Pháp, trong khi thật ra các người dẫn dắt người ta lạc đường. Ta sẽ không bố thí gì hết cho những kẻ như các ngươi! Nếu các người muốn thứ gì đó, hãy đi tới cô gái trông như con công kia, và là kẻ có giọng nói như một con chim sơn ca, và tâm thức thì mạnh mẽ như một ngọn núi. Hãy hỏi xin cô ta, vợ của vua Rinang; ta chỉ là đầy tớ của cô ta, ta không có quyền bố thí!”
Thế là các Lạt ma trở lại chỗ Nangsa và nói với cô những gì Ani Nyemo đã nói. Cô không tin những gì Ani Nyemo đã nói, và rất buồn vì điều đó tới nỗi cô cho họ bảy bao bột mì. Cô hỏi họ: “Quý vị từ đâu tới và sắp đi đâu? Làm ơn cúng dường cho các guru và chư Phật để tôi có thể thực hành Pháp khi tôi được phép.” Sau đó một trong những yogi hát cho cô nghe bài ca này:
“Xin kính lễ Guru!
Xin giải thoát chúng sinh khỏi đại dương đau khổ!
Hãy lắng nghe chúng tôi, Nangsa!
Xin cảm ơn cô đã cúng dường.
Tôi từ La To tới,
Từ Lachi, núi tuyết.
Tôi là một đệ tử của Milarepa,22
Tên tôi là Rechung Dordrag.23
Chúng tôi đang trên đường đi miền trung Tây Tạng, tới thung lũng Yarlung.
Hẳn là có một mối liên hệ giữa cô
Người sống trong thị trấn,
Và chúng tôi những kẻ ở trong núi non,
Để đạt được cấp độ phát triển của Đức Phật
Gốc rễ của mối liên hệ của chúng ta là sự hồi hướng.
Cô đã cho chúng tôi thực phẩm,
Chúng tôi đã tặng cô một vài minh giảng về Pháp.
Đó là nguyên nhân thuộc nghiệp cho sự thực hành
Pháp trong tương lai.
Vì thế chúng ta sẽ cầu nguyện chư Phật
Khiến cô có thể thực hành Pháp.”
Khi nghe được những lời này lòng sùng mộ của cô tăng trưởng mạnh mẽ, và cô cho họ ít bao ngũ cốc nữa. Những guru ban phước cho cô và tiếp tục hành trình của họ.
Khi nhìn thấy những gì Nangsa làm, Ani Nyemo rất tức giận. Bà cột vạt áo quanh hông, lấy một cây gậy dài và tới gần Nangsa. Chăm chú nhìn cô, bà ta nói:
“Bề ngoài cô trông đẹp đẽ,
Nhưng bên trong cô là một con quỷ,
Cô là con quỷ cái, trông giống một con công,
Hãy nghe tôi!
Có một guru ở Tingri tên là Phadampa Sangye.24
Ở Lachi có một guru nổi tiếng khác tên là Milarepa.
Nếu cô bố thí cho mọi người đi qua
Thì không có lý do gì cô tự gọi mình là mẹ của con cô.
Cánh đồng này nổi tiếng vì lúa mạch của nó,
Nếu cô muốn bố thí mọi thứ cho các yogi,
Tại sao cô không đi với họ?”
Nangsa trả lời:
“Xin kính lễ Tam Bảo!
Xin cứu giúp đứa con gái này là kẻ không có thực hành Pháp!
Ani Nyemo, xin lắng nghe tôi!
Tôi không tin chắc về việc bố thí thực phẩm cho các yogi,
Vì thế tôi gởi họ tới chỗ bà.
Bà bảo họ bà chỉ là một đầy tớ,
Và tống họ trở lại cho tôi.
Cho dù họ không là những yogi xuất sắc
Họ nghèo khó, vì thế tôi bố thí cho họ.
Nếu họ ra đi họ nói: ‘Tôi đi Rinang, và họ không bố thí gì cho tôi,’ điều đó không tốt.
Trong truyền thống Giáo Pháp nếu bà giàu có thì việc bố thí cho người nghèo là điều rất tốt.
Giống như những con ong chỉ thâu góp và tàng trữ mật,
Nó vô ích khi sở hữu nhiều và không sử dụng nó.
Xin đừng gọi những đệ tử của Milarepa là những hành khất.
Xin đừng gọi tôi là quỷ cái bởi đã bố thí cho đệ tử của Milarepa.
Bà nên hoan hỉ đối với thiện hạnh của tôi.”
Lời nói này làm Ani Nyemo giận dữ và bà nói:
“Đồ quỷ cái yêu ma,
Cô không bố thí bởi lòng sùng mộ;
Cô chỉ cúng dường bởi những yogi này có giọng nói hay và trông đẹp mã.
Cô cho rằng chồng cô sẽ tạo lập lại
Những gì cô ném bỏ.
Bất kỳ điều gì tôi nói,
Cô đáp trả gấp đôi.
Có lẽ cô nghĩ ở đây cô là nữ hoàng,
Nhưng tôi là thành viên thực sự của gia đình Rinang.
Tôi có trách nhiệm ở đây.
Bây giờ cô đã rõ chưa?”
Rồi Nyemo tiếp tục:
“Từ trước tới giờ tôi chỉ dùng lời nói suông với cô,
Bây giờ có lẽ tôi phải cho cô thấy bằng tay của tôi!”
Trước tiên bà ta túm lấy cô và đẩy cô lùi lại, rồi lôi mạnh về phía bà. Rồi bà ta giựt bảy sợi tóc trên đầu Nangsa và để chúng ở trong chuba25 của bà. Rồi bỗng nhiên Ani Nyemo nhận ra rằng bà đang đánh người vợ yêu quý của cháu mình.
Vì thế bà đi gặp Dragpa Samdrub và giả bộ đau khổ tới nỗi phải nhổ tóc của mình trong sự tuyệt vọng, trong khi thực ra tóc mà bà ta đưa cho người cháu coi là tóc của Nangsa. Rồi bà ta hát cho cháu nghe:
“Xin hãy nghe Ani Nyemo, Dragpa Samdrub!
Hoàng hậu Nangsa của chúng ta chẳng bao giờ làm việc,
Nhưng làm những điều cô ta không nên làm trong những cánh đồng.
Sáng nay hai yogi đẹp trai đi qua;
Cô ta bị họ thu hút tới nỗi cô cho họ
Gần như mọi thứ trong cánh đồng.
Cô ta không biết xấu hổ và hầu như quyến rũ họ ngay tại chỗ.
Khi cô bảo cô ta hãy nghỉ ngơi đi,
Cô ta đánh cô cho tới khi xương cô đau nhức.
Hãy nhìn xem vợ con là loại người gì!
Con sắp phải chọn lựa giữa vợ và cô của con:
Hãy suy nghĩ thận trọng về sự chọn lựa của con!”
Dragpa Samdrub nghĩ: “Ani Nyemo không nói dối, bởi bà đang chịu trách nhiệm. Nangsa còn trẻ đẹp và là mẹ của một bé trai, vì thế mọi người đối xử tốt với cô. Cô ta đã trở nên hư hỏng. Hẳn là trẻ con và phụ nữ phải được kiểm soát thường xuyên.”
Ông ta đi tìm Nangsa và thấy cô đang kêu gào trong một góc. Cảm thấy hết sức buồn bã, ông hát cho cô bài ca này:
“Cô, con quỷ cái, hãy nghe ta,
Dragpa Samdrub, vua xứ Rinang!
Hãy nhìn những gì cô đã làm!
Cô đã làm những điều không nên làm với những trò lừa bịp đó.
Và cô đánh cô của ta!
Nếu cô bỏ mặc một con chó trên đỉnh một ngôi nhà,
Nó bắt đầu sủa những vì sao.
Nếu cô coi một con lừa giống như một con ngựa,
Nó bắt đầu đá con ngựa.
Giống như một thủy thủ cẩu thả và lười biếng trong chỗ nước nông,
Cô lơ đễnh và biếng nhác bởi ta dễ dãi với cô.
Giống như một người đã biết một con chó,
Không nhặt một cây gậy khi tới gần nó,
Giống như thế, cô đối xử với ta thật bất cẩn!
Hãy xem cô quỷ quái ra sao, Nangsa!”
Nangsa nghĩ: “Ta chẳng làm bất kỳ điều gì và Ani Nyemo đã đi thuật lại cho Dragpa Samdrub. Trái lại, nếu không có sự sân hận thì người ta không thể thực hành lòng bi mẫn. Nếu ta nói ra sự thật thì chồng ta sẽ không giận dữ với ta, nhưng ta sẽ gây chia rẽ người thân thuộc. Nếu ta kể cho những đầy tớ sự thật thì họ sẽ còn ghét Ani Nyemo hơn nữa. Vì thế ta sẽ không trả lời.”
Khi Nangsa không trả lời Dragpa Samdrub cho rằng Ani Nyemo đã nói thật. Ông ta nghĩ rằng Nangsa kêu khóc là bởi cô cảm thấy có lỗi. Vì thế ông nắm tóc cô, kéo tới kéo lui và đá cô. Sau đó ông ta đánh cô bằng sống dao lớn cho tới khi cô tay chân cô chảy máu và gãy ba cái xương sườn.
Cô gào thét rất nhiều khiến những người hầu của cô nghe tiếng cô và chạy tới. Họ quỳ mọp trước Dragpa Samdrub và nói: “Đại vương, xin hãy lắng nghe! Cho dù Hoàng hậu Nangsa có làm phiền lòng ngài, ngài vẫn có thể dùng lời nói để truyền đạt. Bà là người mà ngài sẽ cùng với chia sẻ cả cuộc đời và là mẹ của con trai ngài. Làm thế nào ngài có thể đánh bà nhiều như thế? Khuôn mặt của Nangsa như vầng trăng rằm, nhưng giờ đây nó đầy dấu vết như mặt trăng bị những đám mây che ám. Thân bà như một cây tre non dẻo dai, nhưng ngài đã làm gãy ba xương sườn. Xin đừng đánh bà! Hoàng hậu Nangsa, xin đừng khóc nữa!”
Sau đó họ đưa Hoàng hậu Nangsa và Dragpa Samdrub trở về phòng của họ.
Cách đó không xa là một tu viện Kyepo Yarlung, và ở đó có một guru xuất sắc tên là Sakya Gyaltsen.26 Ngài là vị guru đã khuyên Milarepa đi tới Lodrag Marpa Lotsa.27
Ngài đặc biệt nổi danh nhờ trí tuệ thông suốt Giáo Pháp quý báu Dzogpa Kyenpo,28 mặc dù ngài thành tựu trong mọi dòng truyền thừa. Nhờ sự toàn trí của mình, vị guru này đã nhận ra rằng Nangsa là một dakini đặc biệt và đang phải trải nghiệm đau khổ do nghiệp quá khứ, nhưng nỗi đau khổ này đang tịnh hóa cô thêm nữa. Ngài thấy rằng cô sẽ chết và sau đó trở lại thân xác cũ29 để cứu giúp chúng sinh. Để đẩy mạnh tiến trình này ngài đã hiển lộ một huyễn thân,30 trông như một người hành khất rất đẹp cùng với một con khỉ. Người hành khất huyễn hoá này đi tới dưới cửa sổ của Nangsa và hát bài ca này:31
“Cô là người mà sắc đẹp còn vượt trội sắc đẹp của một thiên nữ,
Đang ở trong cửa sổ này,
Xin lắng nghe tôi!
Xin lắng nghe giọng của tôi và nhìn con khỉ!
Trong rừng ở miền Đông Kongpo
Có một loài khỉ,
Mặc dù chúng có thể chơi đùa chúng vẫn đeo bám mẹ chúng,
Và nhận thực phẩm từ mẹ khỉ!
Con khỉ này không có liên hệ nghiệp với mẹ nó,
Vì thế tôi đã mang nó đi!
Nó không thích có sợi dây trên cổ;
Khi tôi huấn luyện nó, nó phải chịu đựng.
Mặc dù cuộc huấn luyện khiến cho nó rất đau khổ,
Nếu nó không cảm thấy đau đớn nó sẽ không học được nhiều!
Trong rừng ở cực Nam Tây Tạng,
Nhiều con chim và con cái của chúng sinh sống.
Những con có khả năng thì bay cao,
Những con không thể thì nghỉ trên cành cây.
Con vẹt lắm mồm thuộc quyền sở hữu của nhà vua.
Nơi chân nó là sợi xích sắt
Mang lại cho nó đau khổ và những trở ngại.
Để học cách bắt chước tiếng người,
Nó trải qua mọi loại đau khổ.
Và việc nói năng tài tình của con vẹt chỉ là một sự bắt chước.
Ở miền Tây, tại Nepal, xứ của lúa gạo,
Có những mẹ con ong vàng sinh sống.
Những con may mắn hút chất tinh túy từ hoa,
Những con không may mắn chỉ kêu vo vo quanh nơi có mùi bia chang nấu bằng gạo.
Những con nhỏ bé và còn kém may mắn hơn bị trẻ con bắt và bị hành hạ.
Những con ong để mặc tổ ong của chúng chịu đựng mọi loại đau khổ.
Chính bởi gắn bó với sự ngọt ngào mà những con ong phải hoàn toàn kinh nghiệm nỗi khổ này.
Ở phương Bắc, trong những đồng cỏ Mông Cổ, Mỗi cừu cái có một cừu con và chúng tự nuôi sống bằng cỏ.
Mặc dù chúng không béo mập,
Nhưng chúng khỏe mạnh và đi cùng những người hành hương trên đường.
Rồi chúng rơi vào tay một kẻ đồ tể,
Và chịu đựng đau khổ khi thân chúng nằm dưới tay đồ tể.
Do bởi thịt của chúng mà chúng phải chịu sự gian khổ.
Đây là câu chuyện của thịt cừu thơm ngon.
Ở Nyang Thượng mỗi người đàn bà có một đứa con.
Những người may mắn hoạt động trong cô tịch, ở trong những ẩn thất.
Những người khác sống ở nhà với cha mẹ.
Những người đàn bà đẹp đi tới những nhà quý phái như cô dâu của họ.
Họ chịu đựng những đau khổ qua tay của những kẻ như Ani Nyemo.
Họ kinh nghiệm đau khổ bởi sự ganh tị của những kẻ ấy.
Đây là những gì xảy ra cho những người đàn bà đẹp.
Nếu cô không giữ lẽ vô thường và niệm tưởng về cái chết trong trái tim cô,
Thì cho dù cô xinh đẹp, cô giống như một con công Ấn Độ.
Nếu cô không thực hành Pháp,
Thì sau khi có được một thân người,
Giọng nói ngọt ngào của cô không hay hơn giọng của con chim két hót trong những rặng liễu.
Nếu cô không cho tôi thứ gì,
Cô không hữu ích hơn những bức tranh của những
Bổn Tôn được trang trí trong các đền chùa – Với tất cả những vật trang sức và nữ trang của cô.”
Khi bài ca chấm dứt con khỉ ngưng vũ điệu của nó. Nangsa đã nghe giọng hát của người hành khất và đứa con trai của cô đang nhìn con khỉ. Nangsa nghĩ: “Ta phải cho người này thứ gì đó. Nếu ta cho ông ta bất kỳ thứ gì đó như lúa mạch hay các châu báu, điều đó có thể làm cho một người nào đó nổi giận; cách tốt nhất là cho ông ta thứ gì thực sự là của ta. Ta muốn bàn với ông ta về nơi ta học Pháp và ai là những vị Thầy xuất sắc. Ta không nên dính mắc với đứa con ta hay ta sẽ giống như những con vật trong bài ca của vị yogi. Ta phải hứa sẽ ra đi và thực hành.”
Vì thế cô gọi ông ta vào phòng và hát cho ông ta nghe bài ca này:
“Xin lắng nghe tôi,
Ông, người hành khất với con khỉ!
Cha mẹ tôi đã già,
Giống như bóng chiều tà.
Giờ đây họ đã già
Tôi chẳng thể giúp đỡ họ.
Suy nghĩ như thế, khát khao từ bỏ khởi lên trong người đàn bà này.
Nangsa sẽ không ở đây,
Cô ta sẽ thực hành Tantra.32
Obum sẽ ở trong ẩn thất!
Khi tôi nhìn chồng tôi,
Tôi nghĩ tới lá cờ lay động trên mái nhà.
Mặc dù ông ta là chồng tôi, ông không vững chắc.
Ông ta tin những gì người khác nói trước khi nghe tôi.
Suy nghĩ như thế, khát khao từ bỏ khởi lên trong người đàn bà này.
Nangsa sẽ không ở đây,
Cô ta sẽ thực hành Tantra,
Obum sẽ ở trong ẩn thất!
Khi tôi nhìn đứa con trai,
Nó giống như một cầu vồng;
Mặc dù nó đáng yêu,
Nó sẽ không đưa tôi tới giác ngộ.
Suy nghĩ như thế, khát khao từ bỏ khởi lên trong người đàn bà này.
Nangsa sẽ không ở đây,
Cô ta sẽ thực hành Tantra,
Obum sẽ ở trong ẩn thất!
Khi tôi nhìn Ani Nyemo,
Tôi nhận ra bà ta như một con rắn,
Ganh tị tới nỗi ngay cả việc thiền định cũng làm bà ta nổi giận.
Suy nghĩ như thế, khát khao từ bỏ khởi lên trong người đàn bà này.
Nangsa sẽ không ở đây,
Cô ta sẽ thực hành Tantra,
Obum sẽ ở trong ẩn thất!
Khi nhìn những người hầu tôi cảm thấy buồn:
Chẳng có ai nghe họ,
Như thể họ là những đứa trẻ nhỏ.
Suy nghĩ như thế, khát khao từ bỏ khởi lên trong người đàn bà này.
Nangsa sẽ không ở đây,
Cô ta sẽ thực hành Tantra,
Obum sẽ ở trong ẩn thất!
Nếu tôi muốn thực hành Tantra linh thánh,
Tôi nên tới tu viện nào?
Lạt ma nào với những gia hộ vĩ đại, theo ông khuyên bảo?
Ông luôn du hành khắp nơi nên ông phải biết.
Đây là một ít san hô và lam ngọc,
Hãy cho tôi biết sự thật!”
Người hành khất đứng trước mặt cô cúi đầu cung kính.
Ông nói:
“Cô, người trông như một thiên nữ, hãy lắng nghe tôi!
Nangsa xinh đẹp, hãy lắng nghe tôi!
Tôi đã ở mọi nơi tại Tây Tạng.
Không nơi nào tôi không tới.
Mọi sự tôi nói là sự thật.
Tôi chưa từng nói dối.
Tây Tạng là một xứ sở rất sùng đạo,
Có nhiều vị Thầy.
Nhưng một trong những vị nổi tiếng nhất là Milarepa ở Lachi.
Nhưng nơi đó quá xa đây,
Cô chỉ có một mình và không thể đi tới Ngài.
Trong miền Bắc, là một nơi tuyệt vời để sống,
Trên ngọn núi trông như một con sư tử phóng mình.
Đằng sau ngọn núi trông như một con voi phủ phục,
Có một tu viện đẹp tên là Ser Yarlung và một Lạt ma tên là Sakya Gyaltsen.
Lạt ma đó là một đạo sư Dzogchen.
Ngài uyên bác và đầy năng lực.
Nếu Hoàng hậu muốn thực hành Pháp
Xin hãy đi tới đó.”
Khi Nangsa Obum nghe danh hiệu Sakya Gyaltsen, lông tay cô dựng đứng và nước mắt tuôn ra. Cô cho người hành khất ba miếng lam ngọc tốt và năm miếng san hô mà cô đang đeo trên người.
Dragchen, vua xứ Rinang, cha chồng của cô, đang trên đường đi kiểm tra xem công việc tiến hành ra sao, và khi ông đứng trên cầu thang gần phòng của Nangsa, ông nghe được cuộc trò chuyện với người hành khất, một thanh niên có giọng nói hay. Ông ta cho rằng mình nghe Nangsa, nhưng giọng của người nam không phải là giọng của con trai ông, vì thế ông nhìn trộm qua khe cửa. Ông thấy cháu nội Lhau Darpo đang chơi trên sàn nhà với con khỉ và Nangsa đang cho người thanh niên các châu báu của cô.
Ông nghĩ: “Hôm qua Nangsa cho các yogi lúa mạch và đánh Ani Nyemo khi bà bảo cô đừng bố thí cho các hành khất. Vì thế con ta đã đánh cô chút ít. Bây giờ cô ta đã quên điều đó và hôm nay cô ta đưa tên hành khất này vào nhà chúng ta. Làm sao cô ta có thể làm hoàng hậu của chúng ta được? Nếu ta để mặc cô làm thế thì cô ta cũng sẽ làm hư hỏng đứa nhỏ!”
Dragchen đẩy tung cửa. Người hành khất và con khỉ biến khỏi cửa sổ. Ông ta nắm tóc Nangsa và nói: “Hôm qua cô đã cho các yogi lúa mạch. Chúng tôi đã bảo cô đừng cho, vậy tại sao cô mời tên hành khất này vào và cho hắn các châu báu của cô? Chắc chắn là Dragpa và Ani Nyemo có lý. Cô là một con điếm. Cô là một con quỷ cái. Cô đã làm những điều không nên làm.”
Nangsa không kịp trả lời trước khi cha chồng cô bắt đầu đánh đập cô, mặc dù các vết thương do trận đánh trước đó chưa lành.
Sau đó ông mang Lhau Darpo đi và giao nó cho một vú em.
Nangsa đau buồn đến nỗi vỡ tim mà chết. Lhau Darpo quá buồn bã nên kêu khóc cả đêm, cảm nhận rằng mẹ cậu đã chết do chứng vỡ tim. Vì thế người vú em nghĩ rằng bà phải đưa Lhau Darpo tới thăm mẹ mà không ai biết. Khi bà tới phòng Nangsa và mở cửa, bà nghĩ rằng Nangsa đang ngủ. Nhưng khi chạm vào người cô bà thấy nó lạnh ngắt. Bà không thể tin được là Nangsa đã chết, và tiếp tục lay cô dậy. Cuối cùng trong sự khiếp sợ bà chạy đi tìm Dragchen và Dragpa Samdrub. Họ chạy vào phòng Nangsa và nhìn cô, nhưng họ cho là cô giả bộ chết bởi họ đã xúc phạm cô. Dragchen nắm lấy bàn tay phải và Dragpa Samdrub nắm tay trái, họ kéo cô dậy và nói:
“Hãy nghe Dragchen và Dragpa Samdrub, Nangsa Obum!
Hãy nhìn mặt trăng dường như biến mất như trong một cuộc nguyệt thực.
Có lẽ một đám mây đã che khuất mặt trăng,
Nhưng không thể là một cuộc nguyệt thực nếu không đúng ngày.
Hãy thức dậy, Nangsa, người bạn quý báu,
Mẹ của các vị vua, làm ơn thức dậy!
Hãy nhìn bông hoa trong vườn.
Trông nó tàn tạ khi có mưa đá,
Nhưng nó không thể tàn trước mùa thu.
Cô gái, xin đừng ngủ nữa!
Làm ơn thức dậy, Nangsa!
Trong ngôi nhà đẹp đẽ này, trong căn phòng đẹp đẽ này,
Hoàng hậu Nangsa đang đóng vai người chết.
Có thể là cô có đau đớn trong thân;
Nhưng cô không thể chết.”
Họ kéo cô dậy, nhưng cô không trả lời: cô lạnh ngắt và thực sự đã chết. Vì thế họ tổ chức một tang lễ trọng thể và bố thí nhiều thứ để tạo nghiệp tốt.33 Sau đó họ xem bói34 để coi sự việc tiếp diễn ra sao, và câu trả lời là thọ mạng của Nangsa chưa hết và cô sẽ sống lại. Cô phải được đặt trên một ngọn đồi phía đông, và sau bảy ngày họ không phải lo gì tới tử thi nữa. Họ đặt cô trong một quan tài và quấn cô trong một miếng vải trắng. Sau đó họ đem cô tới một ngọn núi phía đông có hình dạng như thân một con voi. Họ để cô ở đó với những người lính gác trong bảy ngày.
Tâm thức cô lìa khỏi xác giống như một sợi tóc được kéo ra khỏi bơ. Cô ở trong Bardo35 và cô gặp Ah Lang Go, Thần Chết. Ông ta đang đưa những người đã làm nhiều thiện hạnh trên một con đường trắng tới ba cõi cao, trong khi những người đã làm các ác hạnh bị đưa tới ba cõi thấp, kể cả mười tám địa ngục. Trong địa ngục, những người đã làm những điều tàn bạo đang bị nấu chín trong một cái chậu lớn màu đen. Những người khác thì khốn khổ trong sự lạnh giá như cái lạnh trên những núi cao. Đây là cảnh giới địa ngục lạnh. Cô sợ tới nỗi không thể chịu đựng nổi. Cô chắp tay cầu nguyện và nói:
“Lạy Thánh Tara,
Xin gia hộ cho con, hỡi Mẹ của các Dakini.
Ngài là Thần Chết thấu suốt nghiệp quả!
Con chưa từng làm điều gì xấu, và thậm chí còn giúp đỡ nhiều người với lòng bi mẫn.
Con biết rằng đã sinh ra thì phải chết,
Vì thế con không bám luyến thân xác mình.
Con đã biết rằng mọi của cải thì vô thường,
Vì thế con đã cho đi rất nhiều.
Con biết rằng vào lúc chết,
Người ta phải phân ly với ngay cả những người thân thiết nhất,
Vì thế thậm chí với họ con cũng không bị dính mắc.
Con không nổi giận ngay cả với cả kẻ thù.
Xin tỏa lòng bi mẫn tới con!”
Thần Chết được hai vị trời hộ tống, một người trắng và một người đen. Họ tính sổ những thiện hạnh và ác hạnh của cô với những viên đá trắng và đen. Có rất ít những viên đen nhưng nhiều viên trắng. Sau đó cô nhìn vào tấm gương nghiệp và thấy rằng cô là một loại dakini đặc biệt. Thần Chết nói với cô: “Hãy lắng nghe ta thật kỹ, người phụ nữ Nangsa Obum! Hãy lắng nghe Thần Chết, một kẻ đầy quyền lực! Vị Vua Pháp thấy rõ đen và trắng, đức hạnh và tội lỗi! Khi ta thấy những thiện hạnh trắng những người này được đưa vào con đường trắng dẫn tới sự giải thoát. Rồi danh hiệu của ta là Avalokitesvara (Quán Tự Tại) cao quý. Ta là hiện thân của lòng bi mẫn, vị Vua của Ba Thời! Khi ta đưa những người xuống địa ngục, ta tên là Shinje, Thần Chết. Khi ta giáng nỗi đau đớn trên những kẻ có nghiệp xấu, ta rất khủng khiếp. Trong vương quốc của ta, bất kỳ kẻ nào làm điều sai trái đều bị trừng phạt. Nếu cô có nghiệp xấu thì ngay cả một guru vĩ đại cũng không thể cứu giúp cô. Một khi đã ở trong địa ngục thì cô khó có thể thoát khỏi. Khi đã ở trong địa ngục làm sao cô có thể giác ngộ? Nhưng cô không phải là một phụ nữ tầm thường, cô không có nhiều nghiệp xấu. Cô là huyễn thân của một dakini. Cho dù thân cô trông như thân của một thiên nữ, tâm cô không bị tác động bởi điều đó, nó có thể chiến thắng mọi sự. Nếu tâm cô luôn nghĩ tưởng về Pháp thì cô sẽ trở nên giác ngộ. Nhưng điều tốt nhất là có cả thực hành Pháp bên ngoài lẫn bên trong.36 Bây giờ cô phải quay về và trở lại xác thân cũ của cô và giúp đỡ những người khác như một delog.”37
Nangsa rất sung sướng. Cô thọ nhận những sự gia hộ và đi trên con đường trắng, cô trở lại thân mình và sống lại.
Khi cô tỉnh dậy trên ngọn đồi phía đông, cô quấn mình trong một tấm vải trắng đẹp đẽ, ngồi trong tư thế thiền định với bảy phương diện.38 Một trận mưa hoa rơi xuống và cô đang thực hiện thực hành Vajra Yogini. Cô được vây quanh bởi ánh sáng cầu vồng. Rồi cô chắp tay trong tư thế cầu nguyện và nói:
“Con đảnh lễ Guru, Deva và Dakini!
Xin đưa con ra khỏi đại dương đau khổ.
Ở phương Đông là Dakini Kim Cương bộ.39
Ngài có thân tướng trắng như vỏ ốc xà cừ,
Bàn tay phải ngài cầm một damaru,40 trô lô lô!
Trong bàn tay trái là một chuông bạc nhỏ, si li li!
Ngài làm việc tràn đầy bi mẫn với hàng ngàn vị phụ tá trắng!
Xin cứu giúp con tránh khỏi những chướng ngại!
Ở phương Nam là Dakini Bảo Sanh bộ!
Ngài có một thân tướng vàng và một diện mạo gần như phẫn nộ,
Tay phải ngài cầm một damaru vàng, trô lô lô!
Trong bàn tay trái là một cái chuông bạc nhỏ, si li li!
Ngài làm hành động tăng ích với hàng ngàn phụ tá vàng!
Xin cứu giúp con!
Ở phương Tây là Dakini Liên Hoa bộ!
Ngài có sắc đỏ san hô, vẻ mặt hơi phẫn nộ,
Cầm trong tay phải một damaru vàng, trô lô lô!
Và trong bàn tay trái một chuông bạc nhỏ, si li li!
Được vây quanh bởi hàng ngàn vị phụ tá đỏ,
Ngài có năng lực hàng phục ba cõi!
Ở phương Bắc là Dakini Nghiệp bộ!
Ngài có sắc xanh lá cây như màu lam ngọc.
Trong tay phải là một damaru vàng, trô lô lô!
Trong bàn tay trái là một chuông bạc nhỏ, si li li!
Được hàng ngàn vị phụ tá xanh lá cây vây quanh,
Ngài cắt đứt những năng lực chướng ngại trong mười lãnh vực.
Ở trung tâm là Dakini Phật bộ!41
Ngài có sắc xanh dương như đá da trời,
Trong bàn tay phải ngài cầm một damaru vàng, trô lô lô!
Trong bàn tay trái là một chuông bạc nhỏ, si li li!
Có hàng ngàn vị phụ tá xanh dương vây quanh,
Ngài có thể thành tựu mọi hành động an bình và phẫn nộ.
Xin ban cho con những năng lực siêu nhiên!”
Khi những người đang bảo vệ tử thi nghe giọng nói của cô, họ nghĩ rằng đó là một “rolang.”42 Những người nhát gan bỏ chạy và những người can đảm định ném đá vào cô thì cô nói: “Ngừng lại! Tôi, Nangsa, chứ không phải ‘rolang.’ Tôi ở địa ngục trở về và bây giờ sống lại.” Mọi người kinh ngạc và tôn sùng cô. Sau khi nhận những gia hộ của cô họ chạy về thuật lại cho gia đình Rinang.
Lhau Darpo rất buồn vì cái chết của mẹ cậu. Cậu bỏ ăn bỏ ngủ. Khi những người bảo vệ tới thì cậu đang ở trên mái nhà với vú em. Cậu nói: “Xác của mẹ tôi ở đâu? Làm ơn chỉ dùm tôi. Dù tôi không thể nhìn thấy mẹ trong đời này, tôi cầu nguyện sẽ gặp bà trong cõi Phật.”
Vú em của cậu cũng rất mến Nangsa và đang khóc lóc. Lhau Darpo lấy bàn tay nhỏ của mình che mắt và nhìn về phương Đông, và hát bài ca này:
“Ông tôi đã giết mẹ tôi khi tôi sống với mẹ.
Giờ đây đứa bé trai này như một con chim nhỏ bị bỏ trên mặt đất.
Nếu mẹ tôi nghe được bài hát buồn này thì tôi sung sướng biết bao.
Hãy nhìn ngọn đồi đằng xa kia: không có những con kên kên tìm kiếm xác chết, thậm chí không có những con quạ,
Chỉ có ánh sáng cầu vồng đậm màu.
Xin đưa tôi tới đó để thấy xác mẹ tôi.”
Vào lúc đó những người bảo vệ Nangsa loan báo rằng cô đã sống lại. Họ đã nhìn thấy cô cuốn mình trong tấm vải trắng được bao quanh bởi ánh sáng cầu vồng và một trận mưa hoa đã đổ xuống. Với sự thống hối Dragpa Samdrub và Dragchen đi tới thỉnh cầu cô trở về Rinang, họ nói:
“Chúng con đảnh lễ các Guru,
Chúng con cầu nguyện các Dakini.
Xin hãy nghe đây, Nangsa, xin lắng nghe Dragchen cha và con!
Thân cô dường như cây tre non,
Chúng tôi không biết rằng nó là thân của một dakini.
Giọng cô thì trống không giống như giọng của một dakini,
Chúng tôi xin lỗi vì đã không làm những gì đã hứa trước đây.
Tâm cô như một tấm gương bạc,
Giống như đại lạc và tánh Không.
Quên mất điều này, chúng tôi làm nhiều việc điên rồ.
Chúng tôi xin tạ lỗi!
Chúng tôi, những chúng sinh vô minh.
Bất kỳ những gì chúng tôi làm đối với thân, ngữ và tâm của cô,
Chúng tôi đã làm trong vô minh.
Xin tha thứ cho chúng tôi,
Xin mang theo chúng tôi bất kỳ nơi nào cô muốn đi!”
Sau đó Dragchen nói:
“Cho dù cô không thích tôi,
Hãy nghĩ tới con trai tôi và trở về;
Cô đã được dành riêng để chung sống với nó,
Xin hãy trở về!
Xin đừng nghĩ về Ani Nyemo,
Hãy nghĩ tới con trai cô,
Nó là một phần của thân thể cô.
Đừng nghĩ tới Sonam Palkye,
Hãy nhớ Dzom Kye, người đầy tớ của cô từ thời thơ ấu.
Cho dù cô không nghĩ về những người khác, hãy nhớ tới cha mẹ quý báu của cô,
Họ đang ở đây, vì thế xin hãy trở về!”
Mặc dù ông ta van nài cô như thế nhưng cô chỉ nghĩ tới sự nhàm chán Sinh tử của mình và nói:
“Con đảnh lễ năm độc chuyển hóa thành năm trí tuệ!
Con đảnh lễ năm Dakini ở ngũ phương!
Xin lắng nghe, Dragchen và Dragpa Samdrub,
Những người quý phái Rinang, cha và con,
Xin hãy nghe đứa con gái này với nghiệp đau khổ và vô Pháp!
Nangsa Obum, con gái của mẹ tôi!
Trước khi chết, tôi sống trong những ngôi nhà lộng lẫy.
Khi tôi minh họa lẽ vô thường, và thân tôi ở trên đồi phía đông,
Tôi cảm thấy rất buồn khi nhìn cảnh đó.
Nghĩ tưởng về sự vô nghĩa của cuộc đời Sinh tử.
Tôi không cảm thấy hạnh phúc trong nhà quý vị!
Khi Nangsa Obum, con gái của mẹ tôi còn sống, tôi cưỡi một con ngựa mạnh mẽ,
Nhưng giờ đây tôi không thấy thích phi ngựa.
Khi Nangsa Obum, con gái của mẹ tôi còn sống, tôi thích sống với nhiều người hầu,
Nhưng khi chết, tôi phải đi một mình;
Vì thế tất cả đều vô nghĩa!43
Khi Nangsa Obum, con gái của mẹ tôi còn sống, tôi đeo nhiều ngọc quý.
Nhưng khi chết tôi không thể mang theo mình bất kỳ thứ gì,
Châu báu đẹp đẽ dẫn tới những tranh chấp.
Khi Nangsa Obum, con gái của mẹ tôi còn sống,
Cô thường ăn rất nhiều,
Nhưng khi cô ta chết cô phải rời bỏ thân xác,
Vì thế giờ đây tôi không quan tâm tới thân xác!
Khi Nangsa Obum, con gái của mẹ tôi còn sống, quý vị nghe lời những người khác,
Nhưng khi tôi chết quý vị sám hối và cầu xin tha thứ.
Những tranh chấp phát sinh từ bằng hữu thế tục.
Vua Dragchen, tôi không vướng mắc vào ông.
Khi Nangsa Obum, con gái của mẹ tôi còn sống,
Ông đánh đập tôi khủng khiếp,
Nhưng khi tôi chết ông quyết định làm những thiện hạnh vì lợi ích của tôi.
Những tranh cãi phát sinh từ bằng hữu thế tục:
Dragpa Samdrub, tôi không vướng mắc vào ông!
Khi Nangsa Obum, con gái của mẹ tôi còn sống,
Tôi làm việc cực nhọc vì con trai tôi.
Nhưng khi tôi chết nó không thể cứu giúp tôi,
Nó giống như một sợi dây lôi tôi vào Sinh tử.
Những vấn đề phát sinh từ con cái thế tục.
Mẹ không vướng mắc vào con, Lhau Darpo!
Giờ đây tôi sẽ đi thực hành Pháp.
Nếu tôi ra đi ông sẽ có nhiều cô gái trẻ khác.
Ông có thể cưới bất kỳ ai trong những cô gái đẹp này,
Và ở trong địa ngục Sinh tử!”
Tất cả bọn họ suy nghĩ về những gì cô nói và nhận ra rằng đó là điều chân thật. Họ chết sững với bàn tay chắp lại, không thể ra về. Sau đó con trai cô, Lhau Darpo leo vào lòng mẹ, bắt đầu khóc và nói:
Mẹ Nangsa, thân mẹ đã chết và mẹ sống lại,
Đây là một cú sốc đối với con.
Nếu điều này có thật, thì thực đáng kinh ngạc.
Nếu nó là một giấc mơ thì thật đáng buồn,
Nếu mẹ là rolang thì xin hãy giết con,
Nếu mẹ đã chết và sống lại thì xin mang con theo mẹ!
Một đứa bé trai như con không có mẹ
Thì giống như một nhà sư không có guru.
Xin cho con theo mẹ!
Một đứa bé trai như con không có mẹ
Thì như một vương quốc không có vua;
Một vương quốc không có ý nghĩa gì khi không có một vị vua.
Xin đừng ra đi mà không có con!
Con là một bé trai xa lìa mẹ nó,
Con như một thanh niên không có lòng dũng cảm.
Cho dù anh ta nói thật nhiều,
Anh ta không thể bảo vệ cha mẹ,
Hay làm hại kẻ thù.
Xin nghĩ tới điều này và đừng rời bỏ con!
Con là một bé trai xa lìa mẹ nó,
Giống như một cô gái không có tóc,
Cho dù cô có nhiều vật trang sức,
Cô sẽ không tìm được một người chồng.
Xin nghĩ về điều này và đừng rời bỏ con!
Con là một bé trai xa lìa mẹ nó,
Như một con ngựa có thể chạy nhanh nhưng không thể kiểm soát,
Nó không thể bị bán đi.
Xin nghĩ về điều này và đừng rời bỏ con!
Con là một bé trai xa lìa mẹ nó,
Giống như một con la với cái lưng yếu ớt,
Cho dù nó được nuôi dưỡng kỹ lưỡng,
Nó hoàn toàn vô dụng.
Xin nghĩ về điều này và đừng rời bỏ con!
Con là một bé trai xa lìa mẹ nó,
Giống như một thương gia không có tiền,
Cho dù ông ta làm việc cật lực ông không đi tới bất kỳ nơi đâu!
Xin nghĩ về điều đó và đừng rời bỏ con!
Con là một bé trai xa lìa mẹ nó,
Giống như một bánh xe Mani44 không có những sự gia hộ,
Sẽ không ai bận tâm tới nó.
Xin nghĩ về điều đó và đừng rời bỏ con!
Con như một bé trai xa lìa mẹ nó,
Giống như một con chim không có cánh,
Cho dù nó cố bay lên nhưng sẽ ngã xuống liên tục,
Xin nghĩ về điều đó và đừng rời bỏ con!
Con như một bé trai xa rời mẹ nó,
Giống như một nơi không có cỏ và nước,
Mọi người có thể tới,
Nhưng họ sẽ không thể ở!
Xin nghĩ về điều đó và đừng rời bỏ con!
Con là một bé trai xa rời mẹ nó.
Con sẽ là một người cùi, sẽ không ai muốn gần con,
Không có mẹ thì con như thế đấy!
Xin nghĩ về điều đó và đừng rời bỏ con!
Xin hãy trở về nhà!”
Khi Nangsa nhìn thấy đứa con trai, cô cảm thấy có lỗi với nó và bắt đầu kêu khóc; nhưng sau đó cô nhận thức rằng nếu trở về cung điện cô sẽ gặp nhiều chướng ngại hơn nữa. Vì thế cô đặt tay lên đầu nó và nói:
“Xin kính lễ Guru, Người Cha duy nhất!
Tâm yếu của các Dakini, con đảnh lễ ngài!
Lhau Darpo, hãy nghe bài ca của mẹ,
Mẹ không là một rolang,
Mẹ là một delog.
Mẹ chết rồi nhưng đã sống lại,
Vì thế con có thể vui sướng.
Không vật gì và không ai là không chết,
Nhưng có một ít người chết và sống lại.
Thật khó làm một delog.
Cái chết có thể tới bất kỳ lúc nào.
Mẹ là một ngọn núi tuyết,
Và con là sư tử tuyết,
Đừng dính mắc vào mẹ!
Mẹ chỉ là một ngọn núi tuyết tầm thường,
Không như chồng mẹ là ngọn núi lớn,
Vì thế mẹ có thể bị mặt trời làm tan chảy..
Thật hết sức hiểm nguy.
Con là một đại bàng vàng,
Chớ dính mắc vào mẹ,
Mẹ chỉ là một đồi đá nhỏ,
Mẹ có thể bị nổ tung bởi sấm sét.
Con, một con nai đẹp đẽ,
Đừng dính mắc vào mẹ, mẹ giống như một đồi cỏ,
Có những đồi cỏ khác tốt đẹp hơn,
Mẹ thật nhỏ bé và nguy nan khi mùa thu tới.
Con là một con cá vàng nhỏ,
Chớ dính mắc vào mẹ,
Mẹ như một cái hồ nhỏ có thể khô cạn dưới ánh mặt trời,
Có những đại dương an toàn hơn.
Con là một con chim đẹp,
Chớ dính mắc vào mẹ,
Mẹ như một cái vườn nhỏ có thể khô héo.
Có những hoa viên to lớn hơn.
Con, một con ong vàng tuyệt đẹp,
Đừng dính mắc vào mẹ,
Mẹ chỉ là một bông hoa tầm thường.
Có những bông sen lớn kề cận.
Mẹ có thể bị tiêu hủy bởi mưa đá.
Con trai nhỏ, đừng dính mắc vào mẹ,
Delog Nangsa Obum.
Gia đình Rinang thì bảo đảm hơn,
Mẹ có thể chết,
Hãy nghe lời mẹ và giữ chúng trong tâm con, Lhau Darpo!”
Rồi nó van nài mẹ một lần nữa, nó nói:
“Mẹ, người chăm sóc con tràn đầy tình thương,
Mẹ duy nhất của con, xin hãy nghe con, Lhau Darpo!
Nếu mẹ cha con không từng gieo
Chủng tử của sự sống của con,
Làm sao con có thể trở thành sợi dây kéo họ vào Sinh tử?
Nếu con là một sư tử tuyết,
Nếu con không ở với mẹ, ngọn núi tuyết,
Cho dù sấm chớp không giết chết con,
Bờm xanh của con sẽ không mọc,
Vì thế xin ở lại cho tới khi con có bờm xanh!
Sau khi con mọc bờm xanh chúng ta sẽ cùng đi thực hành Pháp.
Cho tới lúc đó mặt trời sẽ không làm tan chảy mẹ,
Mẹ có thể ở trong bóng mát.
Nếu con như con chim đại bàng,
Sống trên một núi đá cao,
Không nối kết với núi non,
Cho dù con không bị giết,
Con sẽ không phát triển đôi cánh lớn.
Vì thế xin đợi tới khi con đủ lớn để bay,
Rồi chúng ta sẽ bay cao trong bầu trời và thực hành Pháp.
Cho tới khi đó sấm sét sẽ không làm nổ tung chúng ta,
Bởi ta sẽ tìm được một guru đầy năng lực bảo vệ chúng ta.
Một con nai nhỏ như con,
Không sống trong rừng,
Cho dù nó không bị các thợ săn giết hại,
Nó cũng không có được cặp sừng đẹp.
Vì thế xin đừng đi cho tới khi con mọc được những cái sừng đẹp.
Rồi ta sẽ cùng thực hành Pháp.
Cho tới khi đó mưa đá sẽ không huỷ diệt mẹ,
Bởi chúng ta có thể bảo những đám mây bay đi nơi khác.
Nếu một con cá nhỏ như con,
Không ở trong mẹ, là nước,
Cho dù câu móc của người đánh cá không bắt được con,
Con sẽ chẳng bao giờ có thể bơi nhanh.
Cho tới khi con có được thân thể mạnh mẽ này,
Thì mẹ, hồ nước, xin ở lại đây!
Khi con đủ mạnh, mẹ và con sẽ cùng thực hành Pháp.
Cho tới khi đó mặt trời sẽ không làm khô cạn mẹ,
Bởi chúng ta có thể cầu nguyện các naga (rồng) sống dưới nước.
Một con chim nhỏ hót hay như con
Không gắn bó với một cái vườn,
Cho dù chim đại bàng không giết con,
Con sẽ chẳng bao giờ có một giọng hót hay.
Vì thế cho tới khi con có giọng hót hay,
Xin hãy ở lại đây,
Rồi ta sẽ đi thực hành Pháp.
Cho tới khi đó mẹ sẽ không bị khô héo trong mùa thu,
Bởi chúng ta có thể bảo thời gian đừng để điều đó xảy ra.
Nếu một con ong nhỏ như con,
Không nối kết với mẹ, một bông hoa,
Cho dù chim chóc không giết con,
Con sẽ chẳng bao giờ có được đôi cánh bạc.
Cho tới khi con có thể làm ra mật của riêng con,
Thì loài hoa rừng, xin đừng ra đi!
Cho tới khi đó mẹ sẽ không bị mưa đá hủy hoại,
Bởi chúng ta sẽ dùng chiếc bình thần để làm ngừng mưa đá.
Nếu con, Lhau Darpo nhỏ bé,
Không ở với mẹ, bậc từ mẫu,
Con sẽ không khôn lớn.
Cho tới khi con có thể tự mình xoay xở,
Xin đừng rời bỏ con!
Khi con đủ lớn chúng ta có thể cùng ra đi và thực hành Pháp.
Mẹ sẽ không chết trước lúc đó, bởi chúng ta sẽ làm một lễ nhập môn đặc biệt và cầu nguyện Đức Phật A Di Đà, Bổn Tôn của sự trường thọ.
Nếu Ani Nyemo nói với cha con về mẹ,
Khiến ông đánh đập mẹ,
Xin nhớ rằng lòng bi mẫn là điều tối yếu trong Pháp, và đừng giận dữ.
Đứa bé trai thân thiết của mẹ đang than khóc, nếu mẹ không có lòng bi mẫn, và không lắng nghe con,
Thì đó không phải là Pháp, mẹ ơi!
Nếu mẹ có lòng bi mẫn, cho dù mẹ sống trong một ngôi nhà bình thường,
Thì mẹ đang thực hành Pháp.
Nếu mẹ không có lòng bi mẫn,
Thì không có gì khác biệt giữa mẹ,
Và những thú hoang sống trong các hang động.”45
Khi Lhau Darpo chấm dứt bài hát thì mọi người, kể cả Dragpa Samdrub và những người còn lại của gia đình bắt đầu van nài cô trở về nhà với họ.
Mọi người trong vương quốc van xin cô trở về. Ngay cả Ani Nyemo cũng cảm thấy hối lỗi và xin được tha thứ, khẩn cầu Nangsa trở về. Bà nói: “Ngay cả bị cái chết đe doạ tôi sẽ chẳng bao giờ làm những điều tôi đã làm trước đây.” Khi nói như thế bà đi tới trước mặt Nangsa và thề là bà sẽ không gây thêm phiền nhiễu nữa.
Nangsa nghĩ: “Toàn thể vương quốc khẩn nài ta trở về. Lhau Darpo có vẻ quá nhỏ và khôn ngoan. Nó đang nói Pháp theo lứa tuổi của nó. Ani Nyemo đã thệ nguyện trước mặt mọi người. Đây hẳn là những gia hộ của Tam Bảo.”
Vì thế cô đồng ý trở về, và họ mặc y phục đẹp cho cô cũng như nhiều đồ châu báu, và lên đường về nhà. Một trận mưa hoa đổ xuống cùng ba tiếng sấm rền vang. Thân cô là Nirmanakaya46 Hóa Thân của Đức Phật. Ngữ của cô là âm thanh trống không của Sambogakaya (Báo Thân). Tâm của cô là đại lạc và tánh Không của Dharmakaya (Pháp Thân).
Cô nghĩ: “Ta sẽ tới gia đình Rinang và giảng Pháp. Ta sẽ đặc biệt chuyển tâm của Ani Nyemo.” Rồi cô giảng về sự quý báu của thân người, lẽ vô thường, nghiệp, nỗi khổ của Sinh tử, những lợi ích của Pháp, và nhiều giáo lý khác.
Nhưng ngay cả sau khi nhận lãnh những giáo lý này, cha chồng, chồng của cô và Ani Nyemo có nhiều dấu vết nghiệp tiêu cực tới nỗi họ không thay đổi gì cả. Họ chỉ sợ cô sẽ ra đi và ruồng bỏ họ nên họ đối xử với cô như một nữ hoàng.
Nangsa rất buồn bởi cô không thể xoay chuyển được tâm họ hướng về Giáo Pháp của Đức Phật, và bởi cô không thể ra đi để tự thực hành nên cô không ăn không ngủ.
Dragchen, Dragpa Samdrub, và Ani Nyemo hát cho cô nghe bài ca này:
“Hãy nghe chúng tôi, cô với thân tướng đẹp đẽ,
Người hiểu được tâm của tất cả những bé trai,
Hoàng hậu Nangsa, xin nghe chúng tôi!
Chúng tôi tạ lỗi cô,
Và hết sức ân hận về những gì chúng tôi đã làm cho cô,
Và sẽ chẳng bao giờ còn làm những điều như thế,
Cho dù có bị án tử hình.
Nhưng bây giờ chúng tôi không làm điều gì với cô,
Thì vì sao cô quá sầu muộn?
Ban đêm cô không ngủ,
Hay ban ngày không ăn.
Không có lý do gì để buồn thế,
Cô có bệnh gì không?”
Nangsa trả lời:
“Con kính lễ Tam Bảo,
Xin gia hộ cho con, hỡi Deva và các Dakini.
Xin tiêu trừ những chướng ngại, hỡi các Hộ Pháp.
Xin ban cho con ước muốn theo đuổi Pháp!
Xin lắng nghe Nangsa Obum, hỡi ba vị!
Xin nghe delog Nangsa!
Tôi không buồn vì những lý do thế tục,
Tôi không có bất kỳ bệnh hoạn nào bởi bốn yếu tố thiếu quân bình,47
Tôi không có ước muốn nào khác.
Tôi chỉ buồn vì quý vị không để tôi ra đi thực hành Pháp.
Cho dù căn phòng này trông như một cõi trời,
Và thực phẩm có vị cam lồ,
Cho dù những quyến thuộc như quý vị là các vị trời, tôi vẫn cảm thấy buồn.
Cho dù Lhau Darpo là một hoàng tử tín tâm,
Tôi sẽ không dính mắc vào nó.
Nếu ba vị không muốn thực hành Pháp
Thì ít nhất hãy để tôi đi,
Nếu không thực hành thánh Pháp,
Thì ít nhất hãy để tôi gặp lại cha mẹ tôi.”
Dragchen nghĩ: “Trước đây, chúng ta đã nghe Ani Nyemo và đánh Nangsa cho tới chết. Giờ đây chúng ta không làm hay nói điều gì, nhưng cô ta vẫn buồn và không thanh thản trong tâm. Nếu ta nói điều gì đó thì ta sẽ gây rắc rối như trước đây. Nếu ta không để cho cô ta đi thì cô sẽ tiếp tục làm những gì cô không nên làm, và không làm những gì nên làm. Cô ta sẽ tiếp tục nói mãi về việc ra đi để thực hành Pháp.”
Rồi ông nghĩ: “Từ khi tới đây Nangsa chưa về thăm nhà. Mặc dù chúng ta hứa với cô là cô có thể đi nhưng ta luôn luôn trì hoãn điều đó; chúng ta ngược đãi cô và đúng là cô đang nhớ cha mẹ. Ta sẽ cho cô ta về nhà cô và cho đứa bé trai cùng đi với mẹ nó. Sau đó cô ta sẽ không bỏ đi và có lẽ cha mẹ cô có thể nhờ cô làm một vài công việc.”
Trở về nhà
Nhà vua đưa Nangsa và Lhau Darpo về nhà với nhiều tặng vật. Trong cuộc hành trình Dzom Kye cõng Lhau Darpo còn Nangsa đi bộ. Sau đó họ đi tới một con sông mà nước dâng cao tới nỗi họ không thể vượt qua bằng cầu và sắp phải dùng một chiếc đò. Cô hát một bài ca cho người lái đò đang ở bên kia sông:
“Tôi mong gặp mẹ tôi, vì thế xin hãy qua đây!
Tôi đang nghĩ về Nyangtsa Seldron,
Vì thế xin đưa thuyền qua đây!
Tôi nhớ cha tôi,
Xin đem chiếc thuyền lớn với đầu ngựa!
Tôi đang nghĩ về Kunzang Dechen,
Vì thế xin mang thuyền tới!”
Người lái đò trả lời:
“Có hàng ngàn người qua đây mỗi ngày;
Chúng tôi có quá nhiều việc nên không có thời giờ cho cô!
Nếu cô nghĩ quá nhiều về cha mẹ cô,
Hãy nhảy xuống và bơi qua.”
Nangsa trả lời:
“Xin đừng nói như thế;
Hãy đem chiếc thuyền lớn có trang trí đầu ngựa.
Nếu ông nuôi béo một con ngựa và nó không chở ông,
Tại sao phải giữ nó trong chuồng?
Nếu ông gieo hạt trên mặt đất,
Nhưng không thứ gì mọc lên,
Ông phải mua thực phẩm,
Và không có lý do gì để trồng trọt.
Nếu ông thực hành Pháp,
Nhưng nghĩ tưởng Đức Phật như một kẻ thù,
Thì không có lý do gì để ở trong ẩn thất.
Nếu có một chiếc thuyền trên mặt nước,
Nhưng nó không chở người,
Thì không có lý do gì để có một chiếc thuyền.”
Người lái đò trả lời:
“Cho dù cô nói rất ngọt ngào,
Cô không thể quở trách nước.
Trong các rặng núi những quân cướp là kẻ mạnh mẽ nhất,
Trên con sông người lái đò đang làm việc của mình.
Nếu cô có năng lực thần diệu thì tại sao cô không bay?
Nếu cô không có năng lực thần diệu,48
Thì cô phải trả tôi tiền đò!
Nếu cô có năng lực thần diệu thì hãy làm một cây cầu,
Nếu không, hãy trả tiền cho tôi!
Nếu tôi không lấy tiền thì không có lý do gì để có một chiếc thuyền,
Khi một người nghĩ tưởng về việc bắn tên, hãy mua một cái cung,
Nếu không bắn thì không có lý do gì để mua nó!
Tôi cho rằng mình kiếm được lợi nhuận,
Đó là lý do tại sao tôi làm công việc này.
Không có lý do gì để đeo nhiều vật trang sức,
Nếu không ai trong chốn chợ đông ngắm nhìn cô.
Tôi trở thành người lái đò để kiếm chút đỉnh tiền;
Nếu tôi không làm ra tiền,
Thì nó hoàn toàn là một công việc khó nhọc,
Và là vận xấu đối với tôi.”
Nangsa nghĩ: “Trong núi non thì giặc cướp đúng là những kẻ mạnh nhất. Ở chốn này quyền thế nằm trong tay ông ta, vì thế ta phải trả tiền.” Nhưng trước khi làm thế cô hát cho ông ta bài ca này:
“Ông nói đúng, và chắc chắn là tôi sẽ trả công cho ông.
Tôi nhớ cha mẹ tôi,
Nhưng trên tất cả tôi nhớ lẽ vô thường.
Một khi tôi đã thăm viếng họ,
Tôi muốn ra đi thực hành Pháp.
Tôi sẽ trả công cho ông, vì thế hãy gấp lên và qua đây!
Lam ngọc dành cho guru của tôi,
Những miếng san hô nhỏ hơn tôi sẽ biếu ông.
Sau khi gặp cha mẹ,
Tôi phải ra đi và thực hành Pháp,
Vì thế hãy qua đây gấp với chiếc thuyền!
Chiếc nhẫn vàng cùng viên ngọc đẹp,
Tôi phải để dành cho guru của tôi.
Nhưng tôi sẽ biếu ông chiếc nhẫn khác.
Vì thế hãy gấp qua đây với chiếc thuyền.
Tôi phải thực hành Pháp không trì hoãn!
Tôi có miếng lam ngọc và san hô khác dành cho guru của tôi.
Nhưng tôi có một ít hổ phách để biếu tặng ông.
Tôi muốn gặp cha mẹ tôi lập tức,
Sau đó tôi sẽ đi thực hành Pháp,
Vì thế hãy cấp bách lên!”
Sau đó cô bắt đầu cởi các đồ trang sức và đưa chúng cho người lái đò. Ông ta chú ý tới vẻ đẹp và giọng nói hay của cô và hết sức ngạc nhiên. Ông ta hỏi: “Cô gái đẹp, cô là ai?”
Nangsa trả lời: “Tôi là Hoàng hậu Nangsa Obum, vợ của vua Rinang.” Ông ta đã nghe câu chuyện của Delog Obum, vì thế ông trả lại cô mọi thứ và quỳ lạy trước mặt cô. Mọi người khác trong thuyền rất sung sướng được gặp cô và nghe giọng nói của cô. Vì thế họ khẩn cầu cô hát một bài..
“Nếu những miếng san hô và hổ phách quanh cổ tôi là những Hộ Pháp,
Thì đẹp đẽ biết bao!
Nếu chiếc vòng tay bằng vỏ ốc nơi bàn tay phải tôi
Là một vỏ ốc xà cừ để gọi các nhà sư từ tu viện,
Thì đẹp đẽ biết bao!
Nếu chiếc vòng kim cương nơi bàn tay trái tôi,
Là một mala để trì tụng thần chú,49
Thì thật đáng yêu biết bao!
Nếu tất cả những chiếc nhẫn trên các ngón tay tôi là trí tuệ và phương tiện,50
Thì đẹp đẽ biết bao!
Nếu chiếc muỗng vàng đeo bên cạnh tôi,
Là một cái chuông và xập xoã,
Thì đáng yêu biết bao!
Nếu chiếc gương bạc đeo bên cạnh tôi,
Là mạn đà la51 của các cõi Phật,
Thì đẹp đẽ biết bao!
Nếu chiếc khăn choàng của tôi là khăn của một ni cô,
Thì đẹp đẽ biết bao!
Nếu chiếc váy xanh của tôi là váy nâu sẫm của một sư cô,
Thì đẹp đẽ biết bao!
Nếu cái tạp dề52 của tôi có nghĩa là
Tôi sắp tu học Pháp,
Thì tôi hoan hỉ biết bao!
Nếu tất cả quý vị là những tu sĩ và sư cô đang lắng nghe tôi,
Thì đẹp đẽ biết bao!
Nhưng cứ như thế này
Thì tôi cảm thấy thật buồn!
Tôi sẽ ra đi để thực hành Pháp càng sớm càng tốt!”
Bởi Nangsa có một giọng nói hay và ý nghĩa của lời cô nói thì rõ ràng và đơn giản như thế nên mọi người quỳ lạy cô và từng người một hứa nguyện chấm dứt việc tạo nghiệp xấu và làm những thiện hạnh. Nangsa rất sung sướng bởi bài hát của cô đã làm mọi người hướng về Pháp.
Sau khi thuyền cặp bến, họ tiếp tục đi về nhà cha mẹ cô. Họ vui mừng khôn xiết khi nhận ra cô từ đằng xa. Cha cô mang lại cho cô một khăn choàng cổ53 trắng và mẹ cô mang một ít bia chang, và họ đi một quãng bằng tầm bắn một mũi tên để gặp cô. Rồi Kunzang Dechen hát cho cô bài ca này:
“Con gái Nangsa của ta, dakini, Lhau Darpo và Dzom Kye,
Hãy nghe ông già này:
Trước khi núi tuyết tan chảy,
Sư tử tuyết trở về.
Cảm ơn con trở lại, con đã mọc một bờm xanh tuyệt đẹp.
Trước khi ngọn núi đá,
Sụp đổ do cú đánh của sấm sét,
Con đại bàng nhỏ trở về,
Con có mọc cánh không?
Trước khi rừng khô héo,
Vị thần đồng áng nhỏ trở về,
Cảm ơn con, đã trải qua một thời gian dài,
Con đã mọc gạc chưa?
Trước khi hồ khô cạn,
Con cá nhỏ trở về,
Con có thể bơi giỏi?
Trước khi vườn khô héo,
Con chim hót hay từ rừng xanh trở về,
Cảm ơn con đã trở lại,
Con có phát huy giọng nói hay?
Trước khi vườn hoa bị mưa đá tiêu hủy,
Con ong nhỏ trở về,
Cảm ơn con đã trở lại,
Con có đôi cánh bạc?
Trước khi mẹ cha già của con mất,
Nangsa, con đã trở về,
Chúng ta không thấy con một thời gian dài,
Con khoẻ mạnh chứ?”
Nangsa trả lời:
“Cha mẹ, những người ban tặng thân và tâm,
Xin nghe delog Nangsa Obum!
Mọi người sinh ra đều phải chết,
Nhưng những người đã chết và sống lại thì rất ít.
Con sư tử tuyết nhỏ có nhiều vấn đề trong tuyết,
Nhưng tuyết không thể giết cô ta.
Cô vui sướng nhất được thấy Núi Kailash.54
Con đại bàng trúng nhiều mũi tên,
Nhưng nó vẫn sống,
Và sung sướng được nhìn rặng núi đá.
Con nai nhỏ bị nhiều thợ săn đeo đuổi,
Nhưng nó có sừng sắc nhọn,
Nó sung sướng được nhìn khu rừng quê hương một lần nữa.
Con cá vàng nhỏ có nhiều móc câu lôi cuốn,
Nhưng nó rất thận trọng
Vì thế nó sung sướng được trở về ao xưa một lần nữa!
Nangsa bị giết thật tình cờ,
Nhưng một lần nữa trở lại cuộc đời,
Cô rất sung sướng lại được thấy mẹ cha.”
Sau đó Nangsa thuật lại mọi chuyện xảy ra ở Rinang, chuyện cô bị giết và viếng thăm địa ngục ra sao, và sau đó làm thế nào cô trở lại thân mình và trở thành delog.
Cô kể lại cho cha mẹ mọi chuyện thật chi tiết. Cha mẹ cô khóc lóc, mỉm cười, nắm tay cô và nói họ từng nghe nói về những người trở về từ cái chết nhưng không bao giờ nghĩ rằng điều ấy sẽ xảy ra cho con gái họ. Họ đối xử thật tốt với cô và nhóm người của cô và chuẩn bị nhiều vật dụng để gởi cho gia đình Rinang.
Sau đó một hôm Nangsa đi ngang qua phòng dệt vải và nhìn thấy trên khung cửi một miếng vải mà cô chưa dệt xong khi cô đi Rinang. Vì thế cô quyết định hoàn tất nó trước khi đi để giúp đỡ cha mẹ cô. Nhưng mẹ cô nói: “Con không nên làm, thật xấu hổ quá. Con có nhiều người hầu mà.”
Nangsa đáp: “Tại sao con phải xấu hổ khi làm việc? Điều đáng xấu hổ là con có một thân người quý báu và đang không thực hành Pháp. Đây là nguyên nhân chính đáng để xấu hổ. Mẹ cho rằng con là Hoàng hậu của Rinang, nhưng con nghĩ rằng mình là người thấp kém nhất. Con không thể giúp đỡ cha mẹ con và con không thể thực hành Pháp. Ngay cả một công việc tầm thường đã bắt đầu thì phải chấm dứt. Bây giờ con sẽ không nhờ bất kỳ ai giúp đỡ nữa, tự con sẽ làm việc đó.”
Cô bắt đầu dệt vải, và nhiều bạn cũ tới viếng cô sau khi nghe nói về kinh nghiệm của cô. Họ cúng dường cho cô bia chang. Họ thấy cô đang làm việc, và có một lần khi cô đang nói chuyện với họ, cô quyết định hát cho họ nghe một bài để hướng tâm họ về Pháp bằng cách sử dụng những hình ảnh từ công việc của cô:
“Con đảnh lễ Guru, Deva và các Dakini,
Xin cứu giúp đứa con gái không thực hành Pháp này!
Xin hãy nghe tôi, các bằng hữu, các thiếu nữ!
Xin hãy nghe delog Nangsa,
Tôi sẽ hát cho các bạn một bài bằng cách sử dụng khung cửi như một ví dụ,
Để dạy cho các bạn một ít Pháp.
Nếu cái lỗ vuông để tôi ngồi trong đó là một túp lều thiền định làm bằng cành cây,
Thì tôi sung sướng biết bao!
Nếu chiếc chiếu tôi ngồi là tấm nệm thiền định,
Thì tôi sung sướng biết bao!
Nếu delog Nangsa là một thiền giả,
Thì tôi sung sướng biết bao!
Nếu những người trợ giúp cho tôi là những người mang thực phẩm tới cho người nhập thất,
Thì tôi sung sướng biết bao!
Nếu bốn cái chốt giữ khung cửi
Đang chống đỡ bốn gyalsten,55
Thì tôi sung sướng biết bao!
Nếu tấm ván lót là giáo huấn của Guru,
Thì tôi sung sướng biết bao!
Nếu sợi dây đeo hỗ trợ tôi khi tôi làm việc,
Là dấu hiệu của sự từ bỏ Sinh tử,
Thì tôi sung sướng biết bao!
Nếu sợi dọc và sợi ngang
Là đại lạc và tánh Không,56
Thì tôi sung sướng biết bao!
Nếu sợi chỉ dệt,
Là chỉ thiền định,57
Thì tôi sung sướng biết bao!
Nếu những sợi dây chống đỡ khung cửi,
Là giới luật và đức hạnh,
Thì tôi sung sướng biết bao!
Nếu sợi dây bện trắng,
Dẫn đường tới các cõi Phật,
Thì tôi sung sướng biết bao!
Nếu sợi dây bện căng thẳng đứng,
Là một sợi dây kéo chúng ta ra khỏi Sinh tử,
Thì tôi sung sướng biết bao!
Nếu sợi dây bện kéo xuống
Đang cấp bách đóng lại cánh cửa Sinh tử,
Thì tôi sung sướng biết bao!
Nếu chiếc que mở để tách những sợi chỉ,
Ngăn cách và gạn lọc điều tốt và xấu,
Thì tôi sung sướng biết bao!
Nếu máy điều chỉnh độ căng,
Là Bồ Đề tâm,58 sự cúng dường và phụng sự người khác,
Thì tôi sung sướng biết bao!
Nếu chiếc que gỡ rối dài,
Có thể gỡ rối hai che chướng,59
Thì tôi sung sướng biết bao!
Nếu trục lăn cuốn miếng vải hoàn chỉnh,
Là những tích tập công đức và trí tuệ,
Thì tôi sung sướng biết bao!
Nếu ống nhắm biên,
Mang lại sự nhất vị,60
Thì tôi sung sướng biết bao!
Nếu âm thanh của khung cửi
Là âm thanh của sự giảng dạy Pháp,
Thì tôi sung sướng biết bao!
Nếu bộ phận chạy tới lui mang sợi dây,
Là Pháp đem lại hạnh phúc và tẩy trừ đau khổ,
Thì tôi sung sướng biết bao!
Nếu 84.000 sợi dây,61
Là những pháp môn khác nhau phù hợp với những loại người dị biệt,
Thì tôi sung sướng biết bao!
Nếu tâm tôi rộng lớn như miếng vải tôi đang làm,
Thì tôi sung sướng biết bao!”
Sau khi nghe bài hát này một vài người trong những cô gái này chuyển đổi từ việc làm những hành vi tiêu cực thành việc làm điều tốt và các hành vi tích cực. Bài hát này rất dễ hiểu, mặc dù nó có một ít từ phức tạp. Một số người nghĩ rằng Nangsa chỉ muốn đi học Pháp là bởi cuộc đời cô quá dễ chịu, cô có một đứa con xinh đẹp, một người chồng giàu có, tài giỏi và v.v.. Vì thế họ nói với cô: “Cô không nên từ bỏ mọi sự khi đời cô quá hạnh phúc, cô Nangsa à.”
Nangsa đáp:
“Các bạn, xin nghe tôi một lần nữa!
Thân người quý báu thì khó đạt được.
Nếu các bạn không thực hành Pháp thì thật hết sức nguy hiểm
Khi rơi xuống các cõi thấp.
Cuộc đời ngắn ngủi như tia chớp giữa những đám mây.
Cho dù các bạn không muốn thực hành Pháp,
Tôi sẽ đi.
Đời ta thì như một giọt nước trên ngọn cỏ,
Nó có thể bốc hơi chỉ vì chút sức nóng.
Cho dù các bạn không muốn thực hành Pháp,
Tôi sẽ đi.
Cuộc đời giống như một cầu vồng trên cỏ,
Mặc dù có vẻ đẹp,
Nhưng nó không có thực chất.
Cho dù các bạn không muốn thực hành Pháp,
Tôi sẽ đi.
Cuộc đời ta thì dài như đời một con cừu của người đồ tể,
Ta bị kết án tử hình,
Cho dù các bạn không muốn thực hành Pháp,
Tôi sẽ đi.
Cuộc đời như mặt trời lặn,
Trông mạnh mẽ và tươi đẹp,
Nhưng trước khi các bạn hiểu điều đó thì nó đã lặn mất.
Cho dù các bạn không muốn thực hành Pháp,
Tôi sẽ đi.
Giống như một thác nước đổ xuống từ một ngọn núi cao,
Mặc dù nó tạo nên một âm thanh kỳ vĩ,
Nó chỉ kéo dài một chốc lát khi các bạn đi qua nó và nó biến mất.
Cho dù các bạn không muốn thực hành Pháp,
Tôi sẽ đi.
Giống như thực phẩm của một người hành khất,
Cho dù họ có nhiều vào buổi sáng,
Nó ra đi lúc chiều tối.
Cho dù các bạn không muốn thực hành Pháp,
Tôi sẽ đi.
Giống như những người đi trên đường,
Ta thấy họ trong chốc lát và rồi chỉ thoáng chốc họ đi mất.
Cho dù các bạn không muốn thực hành Pháp,
Tôi sẽ đi.
Cuộc đời ta như một tia sáng,
Gió thổi nó đi và nó không còn ở bất kỳ nơi đâu.
Cho dù các bạn không muốn thực hành Pháp.
Tôi sẽ đi.
Cuộc đời giống như một khuôn mặt đẹp,
Nó ở cùng ta khi ta còn trẻ,
Nhưng khi ta già nó sẽ trở nên xấu xí,
Cho dù các bạn không muốn thực hành Pháp,
Tôi sẽ đi.
Nếu tôi có thể tìm ra một guru xuất sắc dạy tôi về lẽ vô thường,
Cho dù các bạn không muốn thực hành Pháp,
Tôi sẽ đi.”
Mẹ Nangsa tình cờ nghe được bài hát này và nói:
“Con là vật đáng yêu đối với ta như trái tim của chính ta,
Hãy lắng nghe chúng ta, Nangsa Obum!
Con muốn tẩu thoát và lìa bỏ chúng ta để thực hành Pháp?
Con muốn rời bỏ chồng con để thực hành Pháp?
Con muốn rời bỏ con trai con và chạy trốn để thực hành Pháp?
Con muốn rời bỏ thần dân của con và ra đi thực hành Pháp?
Con muốn rời bỏ cung điện và đi thực hành Pháp?
Nếu con thực sự muốn thực hành Pháp, điều đó rất khó.
Nếu con nghĩ như vậy, tại sao con có con?
Đừng cố thực hành điều con không thể làm,
Là thực hành Pháp.
Hãy làm những gì con biết cách làm,
Hãy làm một bà nội trợ.”
Nangsa đáp:
“Bà mẹ đầy ơn ích, Nyantsa Seldron, xin lắng nghe con!
Hãy nghe tiếng nói của Nangsa Obum, con gái mẹ!
Mặt trời chiếu rọi bốn phương thế giới:
Khi mặt trời ngừng chiếu sáng con sẽ ngưng mong muốn thực hành Pháp, và ở lại nhà.
Nếu mặt trời vẫn tiếp tục,
Thì con sẽ vẫn đi thực hành Pháp.
Nếu mặt trăng thôi tròn và khuyết ,
Con sẽ ở lại nhà.
Nhưng nếu nó tiếp tục tròn và khuyết, thì con sẽ đi thực hành Pháp.
Nếu hoa sen thôi nở vào mùa hạ,
Và chết héo vào mùa đông,
Con sẽ ở lại nhà và không thực hành Pháp.
Nhưng nếu nó tiếp tục thì con sẽ không ở nhà,
Con sẽ đi thực hành Pháp.
Nếu con sông ngưng lại và chảy ngược dòng,
Con sẽ ở nhà và không thực hành Pháp,
Nhưng nếu nó không làm thế, con sẽ không ở nhà,
Con sẽ đi thực hành Pháp.
Nếu ngọn lửa thôi bùng cháy và lụi tắt,
Con sẽ ở nhà và không thực hành Pháp,
Nhưng nếu nó không làm thế, con sẽ không ở nhà,
Con sẽ đi thực hành Pháp.
Khi lá cờ cầu nguyện trên đỉnh núi ngừng bay trong gió,
Con sẽ ở nhà và không thực hành Pháp,
Nhưng nếu nó không làm thế, con sẽ không ở nhà,
Con sẽ đi thực hành Pháp.
Sau sự sinh ra thì luôn luôn là cái chết.
Nếu điều này không là một sự thực,
Con sẽ ở nhà và sẽ không thực hành Pháp.
Nhưng nếu điều này là thật, con sẽ không ở nhà.
Con sẽ đi thực hành Pháp.
Và bởi cái chết đi theo sự sinh ra là điều chính xác,
Con muốn đi thực hành Pháp.
Giờ đây mẹ là người đàn bà già nua,
Nếu mẹ trẻ lại con sẽ không thực hành Pháp,
Nhưng nếu không thế, con sẽ không ở nhà,
Con sẽ thực hành Pháp.”
Sau đó bà mẹ nghĩ: “Cô ta vốn là một nữ hoàng và cô sẽ không nghe ta, vì thế ta sẽ phải tức giận cô chút ít.” Do đó bà nói với Nangsa Obum:
“Xin hãy nghe mẹ, con gái Nangsa Obum. Cha mẹ đối xử rất tốt với con khi con ở đây và bây giờ con không nghe cha mẹ. Giờ đây con như một kẻ nghiệp thù. Nếu mẹ nói nhẹ với con thì giống như bón phân trên miếng đất mà không có kết quả gì. Vì thế chớ cảm thấy ân hận khi mưa đá dội xuống người con. Con như một con cừu nhỏ không muốn sống với những con cừu khác và bị lừa gạt. Vì thế chớ có hối hận nếu con bị đưa tới kẻ đồ tể!
“Con như người bị bệnh và khi mang thuốc lại cho con thì con không uống. Đừng hối tiếc nếu con chết và đi sang đời khác.
“Con như một cây đàn vĩ cầm phát ra âm thanh chói gắt ngay cả khi nó được lên giây. Chớ có đau khổ khi người thợ làm đàn vĩ cầm tới kiểm tra con!
“Con, với thân tướng đẹp đẽ và giọng nói tuyệt vời, không muốn mang lại hạnh phúc cho vua Rinang và không nghe lời cha mẹ, đừng cảm thấy buồn khi con không là một sư cô hay nữ cư sĩ. Đừng nghĩ rằng con là con gái của mẹ hay mẹ là mẹ của con nếu con cư xử tệ như thế.”
Bà bốc một nắm tro và ném vào mặt Nangsa, và sắp đánh cô bằng một cây gậy, nhưng những người bạn của Nangsa đã ngăn bà lại. Sau đó bà ném cô ra khỏi cửa rồi vào nhà và không cho Nangsa vào.
Ra đi để thực hành Pháp
Nangsa mướn một căn nhà của người bạn và nghĩ: “Mọi người chỉ có một lần sinh và một lần chết, nhưng ta hẳn là có nghiệp rất xấu bởi ta sẽ có tới hai lần chết. Ta không biết khi nào sẽ chết lần thứ hai, vì thế bây giờ ta sẽ đi và thực hành Pháp. Đặc biệt là bởi Thần Chết đã bảo ta trở về và giúp đỡ chúng sinh trước khi ta trở lại gặp ông. Ta đã cố giúp mẹ ta nhưng bà không muốn nghe và nổi giận. Nhưng ta không đáp lại một cách giận dữ vì thế ta không tạo nghiệp xấu. Bây giờ ngay cả con trai ta, được sinh ra bởi những hành vi trong những đời quá khứ của ta, cũng bị lấy đi khỏi ta. Thực ra thảm kịch hiển nhiên này là một đại ân huệ được nguỵ trang. Giờ đây ta được tự do để thực hành Pháp. Nếu ta ở đây lâu, chẳng mấy chốc những người thân của ta sẽ tới đưa ta về. Vì thế ta nên đi gấp. Ta muốn đi gặp Ngài Milarepa, nhưng Ngài ở cách đây quá xa và đi một mình thì thật nguy hiểm. Do đó ta sẽ làm theo lời khuyên của người hành khất với con khỉ và đi gặp Ngài Sakya Gyaltsen.”
Đêm đó cô ra đi trong khi mọi người còn đang ngủ. Khi đi tới cầu Tse Chen, cầu”Đỉnh núi Vĩ đại,” cô nhìn thấy mặt trăng mọc ở phương Đông và nghĩ rằng đó là một điềm lành, vì thế cô hát bài ca này:
“Khi Nangsa tới cầu Tse Chen,
Mặt trăng tròn mọc cùng lúc.
Điều này có nghĩa là vị guru tốt lành sẽ dạy tôi,
Và tôi sẽ cứu giúp nhiều chúng sinh
Giống như mặt trăng mà ánh sáng chiếu soi không phân biệt.”
Cô búng nhẹ xuống mặt nước ba lần62 và sau đó tiếp tục hành trình. Khi cô đi tới chân núi Yarlung thì mặt trời mọc. Khi cô tới tu viện thì các tu sĩ đang thổi vỏ ốc xà cừ để đánh thức. Nhờ thị kiến toàn trí, Ngài Sakya Gyaltsen biết là cô đã tới và cô là ai nhưng giả bộ không biết. Ngài phái một tu sĩ tới ngăn cản cô. Vị tu sĩ nói với Nangsa:
“Cô gái xinh đẹp, hãy nghe nhà sư Tsultrim Rinchen!
Hôm nay cô từ đâu tới?
Cô sẽ đi đâu tối nay?
Cha mẹ và thân quyến của cô là ai?
Chồng cô là ai? Cô giàu có ra sao?
Cô có mấy đứa con?
Cô tên gì và vì sao tới đây?
Đừng cố lừa dối tôi, hãy nói thật!”
Nangsa trả lời:
“Ngài Tsultrim Rinchen, thị giả của guru,
Xin lắng nghe cô gái vô minh này!
Tôi từ đỉnh Nyang To,
Tôi không biết sẽ đi đâu hôm nay,
Thực phẩm của tôi là những gì tôi mang theo,
Cha tôi tên là Kunzang Dechen,
Tên mẹ tôi là Nyantsa Seldron,
Tên riêng của tôi là Nangsa Obum.
Chồng tôi tên là Dragpa Samdrub,
Tôi có đứa con trai là Lhau Darpo,
Tôi chẳng có gì khác ngoài Pháp.
Tôi có nhiều vật trang sức và bạn hữu,
Nhưng tôi không hạnh phúc với cuộc đời thế tục và tôi tới để học Pháp!
Xin cho tôi gặp guru.”
Tsultrim Rinchen trả lời:
“Cô gái có tấm thân và giọng nói mỹ miều,
Hãy nghe tôi, Nangsa Obum.
Cô và sư tử tuyết đều quá đẹp,
Cô sẽ có một thời gian thực hành khó nhọc.
Cô xinh đẹp như chim đại bàng,
Vì thế tôi không nghĩ rằng cô có thể thực hành Pháp,
Cô nên về nhà thì hơn.
Cô giống như con nai trong rừng xanh,
Quá mạnh tới nỗi cô không cần tới Pháp,
Vì thế cô nên trở về thì hơn.
Cô như một con cá lớn trong đại dương,
Quá mạnh tới nỗi cô không cần tới Pháp.
Cô và con công đều quá đẹp,
Cô không cần tới Pháp,
Cô nên trở về thì hơn.
Cô và con chim hót hay đều có giọng tuyệt vời như thế,
Cô không phải cần tới Pháp,
Cô nên trở về nơi đã ra đi thì hơn.
Cô và bông hoa này thì giống nhau.
Cô không cần tới Pháp,
Cô nên trở về nhà thì hơn.”
Nangsa nói:
“Hãy nghe tôi, Tsultrim Rinchen!
Sư tử tuyết và tôi cùng tuyệt đẹp,
Nhưng do bởi nghiệp mà nó có một bờm xanh vĩ đại,
Điều này không làm hại việc thực hành Pháp của nó.
Xin đừng nói với tôi như thế, hãy để tôi vào!
Tôi như con chim đại bàng,
Nhưng bởi nghiệp nó phải mang đôi cánh,
Điều này không làm ảnh hưởng tới việc thực hành Pháp của nó.
Xin đừng nói với tôi như thế, hãy để tôi vào!
Con nai và tôi đều mạnh mẽ,
Nhưng nó mang cặp sừng vĩ đại là do bởi nghiệp,
Điều này không ảnh hưởng tới việc thực hành Pháp của nó,
Xin đừng nói với tôi như thế, hãy để tôi vào!
Con cá và tôi đều mạnh mẽ,
Nhưng chúng tôi như thế là bởi nghiệp,
Điều này không ảnh hưởng tới việc học Pháp của chúng tôi.
Xin đừng nói với tôi như thế, hãy để tôi vào!
Giọng của tôi và con chim hót hay nghe thật tuyệt,
Nhưng đó là do bởi nghiệp,
Nó không ảnh hưởng tới việc thực hành Pháp của chúng tôi,
Xin đừng nói với tôi như thế, hãy để tôi vào!
Đóa hoa trong vườn và tôi đều dễ thương,
Nhưng đó là do bởi nghiệp,
Nó không ảnh hưởng tới việc thực hành Pháp của chúng tôi,
Vì thế xin đừng nói với tôi như thế, hãy để tôi vào!”
Sau khi Tsultrim Rinchen nhìn thấy sắc đẹp thật mỹ lệ và được nghe giọng nói của cô, ông đã nhận ra rằng cô rất mong cầu Pháp, vì thế ông đi vào và tường trình cho vị guru. Vị Guru không cho cô vào ngay nhưng đi lên lầu và đóng cửa lại. Nangsa đứng phía dưới và hát bài ca này:
“Ngài, guru yêu quý, bậc thấu suốt sự thuần tịnh nguyên sơ,
Con tới đây bởi lòng sùng mộ lớn lao đối với ngài,
Con nhàm chán Sinh tử.
Xin cho con được gặp!
Trong nơi yên tịnh ở Yarlung này,
Ngài là điều quan trọng duy nhất đối với con,
Vì thế xin đừng ném con ra ngoài như một con chim chết!
Xin bắt con như một con cá nhỏ, với cái móc câu của lòng bi mẫn!”63
Vị guru đáp:
“Nếu cô là một Hóa Thân của Tara, cô có thể được nhận.
Nhưng những cô gái bình thường không thể thực hành Pháp,
Một phụ nữ trẻ đẹp như cô sẽ gặp khó khăn khi thực hành,
Vì thế cô nên về nhà thì hơn.
Nếu cô cắt tóc64 cha mẹ cô sẽ giận tôi.
Tôi không mời cô tới đây, tốt hơn cô nên trở về!”
Nangsa trả lời: “Yarlung tuyệt đẹp trông như Tsari,65 con tới đây để học Pháp từ ngài. Nếu con không thể làm điều đó thì việc đi vào một hang động để nhập thất sẽ chẳng có ý nghĩa gì như một con chó sói đi vào ổ của nó. Con tới đây là bởi con không muốn lang thang một cách vô nghĩa; cho dù con không có thực phẩm con vẫn sẽ thực hành Pháp. Nếu ngài từ chối dạy con, con sẽ tự sát với lưỡi dao này.” Khi nói như thế, cô rút con dao ra khỏi vỏ. Tsultrim Gyaltsen túm lấy tay cô và gọi vị guru mở cửa, nếu không Nangsa sẽ tự sát.
Vị guru nói:
“Ta tưởng một con dê giao du với đàn cừu.
Ta muốn biết cái nào là đường nâu và cái nào là xi gắn.66
Ta đã thử con để chắc chắn về sự hứa nguyện của con.
Ta không bảo con tự sát.
Ta sẽ dạy con giai đoạn quán tưởng và hậu-quán tưởng.67
Đừng lo lắng gì hết!”
Với những lời này ngài chấm dứt bài ca và cho Nangsa vào phòng của ngài. Cô cúng dường ngài tất cả những vật trang sức và y phục của cô và quỳ lạy trước mặt ngài. Ngài nhận ra rằng cô là một bình chứa hoàn hảo để chứa đựng chất sữa Pháp (Pháp nhũ). Biết rằng vào cuối đời cô có thể giúp đỡ nhiều người, ngài ban cho cô sự nhập môn thân, ngữ và tâm của Vajra Yogini, Mạn đà la của Tsendura.68 Ngài ban cho cô nhiều giáo lý Sutra (Kinh điển) và Tantra của Phật Giáo.69 Rồi ngài ban cho cô một túp lều nhỏ và cô tiến hành việc thiền định. Sau một thời gian ngắn, cô nhận được nhiều dấu hiệu tốt lành. Sau đó ngài ban cho cô những giáo huấn về cách ngăn ngừa các chướng ngại. Cả vị guru lẫn Nangsa đều hết sức vui mừng.
Cuộc tấn công của nhà vua và hoàng tử
Trong thời gian này cha mẹ của Nangsa cùng Lhau Darpo đi mời Nangsa ở nhà các bạn cô về. Nhưng họ không có tin tức gì của Nangsa và không biết cô đi đâu.
Cha mẹ cô cho rằng cô đã trở về cung điện Rinang vì thế họ tới đó thăm cô xem cô có ở đó không. Khi tới nơi họ thuật lại cho gia đình Rinang những gì xảy ra. Vua Dragchen biết là cô đang ở Yarlung tu học với Sakya Gyaltsen. Dragpa Samdrub, chồng cô, ra lệnh tập họp tất cả những thanh niên trên mười tám tuổi và những người đàn ông dưới sáu mươi thành một đạo quân tấn công Sakya Gyaltsen và bắt Nangsa Obum về.
Các đệ tử của Sakya Gyaltsen nghe được những việc đang diễn tiến và rất tức giận Nangsa Obum. Họ nói: “Bởi con quỷ cái này tới đây mà tất cả chúng ta phải chết!”
Khi đội quân hùng hậu tới gần, người ta nghe những tiếng la hét vang dội và ngửi thấy mùi thuốc súng. Lực lượng kỵ mã quá đông khiến người ta không thể nhìn thấy mặt đất. Một số tăng ni bị dẫm đạp và một số bị thương. Tsultrim cố gắng ẵm Sakya Gyaltsen vì ngài quá già không đi nổi, nhưng họ không thể thoát ra vì tu viện bị vây chặt. Rồi Sakya Gyaltsen bị quân lính của Dragchen bắt giữ. Họ trói ngài lại và đưa ngài tới gặp nhà vua. Nangsa đang ở trong lều thiền định của cô; tâm cô mở trống như bầu trời, và cô biết rằng vị guru đã bị bắt. Vì thế cô bước ra ngoài với dây thiền định70 và một miếng vải trắng quấn quanh người. Một bàn tay cô nắm chặt con ngựa của nhà vua và bàn tay kia nắm con ngựa của Dragpa Samdrub, và hát bài ca này:
“Hãy lắng nghe tôi, hai vị, cha và con!
Khi con sư tử tuyết đi lên núi,
Xin đừng tạo nên chướng ngại!
Khi chim đại bàng đang bay trong bầu trời,
Đừng bắn tên vào nó!
Khi con nai nhỏ đang ăn,
Đừng để các thợ săn làm hại nó!
Khi con cá vàng nhỏ đang bơi,
Đừng dụ dỗ nó bằng móc câu sắc nhọn!
Khi con chim con đang hót,
Đừng để con diều hâu lớn hãm hại nó!
Khi tôi du hành trong bầu trời như mặt nhật,
Xin Rahu71 đừng tới ăn thịt tôi!
Xin đừng cố làm hại Sakya Gyaltsen,
Nangsa Obum muốn thực hành Pháp,
Xin đừng ngăn trở tôi!
Những đệ tử khác đang thực hành Pháp,
Cũng đừng quấy rầy họ!”
Cha con vua Dragchen nhìn thấy Nangsa không có các vật trang sức trông như một yogini. Họ cũng nhìn thấy Sakya Gyaltsen bị bắt và bị đưa tới trước họ. Họ giận dữ và làm những cử chỉ nguyền rủa ngài, họ nói:
“Hãy nghe đây, Sakya Gyaltsen, và những người khác của ông!
Hãy nghe Rinang cha và con!
Ông là một con chó già quyến rũ sư tử tuyết của chúng ta!
Vì sao ông tấn công sư tử tuyết bờm xanh của chúng ta?
Ông là một con gà trống dễ sợ,
Tại sao ông hãm hại con gà gô trắng này?
Vì sao ông nhổ lông và cánh của nó?
Ông là một con lừa già sống trong một chuồng ngựa dơ bẩn.
Vì sao ông hãm hại con ngựa rừng tuyệt đẹp của chúng ta?
Vì sao ông cắt bờm của nó?
Ông, con bò đực bẩn thỉu, vì sao ông giao phối với con yak cái trắng tuyệt đẹp của chúng ta?
Và cạo bờm nó?
Ông, con mèo già dơ dáy,
Vì sao ông hãm hại con cọp cái trong sạch của chúng ta và cắt bộ lông của nó?
Ông, Sakya Gyaltsen bẩn thỉu, đã làm điều rất xấu xa!
Ông đã ăn nằm với Nữ Hoàng Nangsa của chúng ta?
Hơn nữa vì sao ông lấy đồ trang điểm tóc của cô ta?
Trong bầu trời có nhiều vì sao và hành tinh,
Nhưng không cái nào có thể ganh đua với mặt trời,
Nếu ông cố tranh tài với mặt trời,
Nó sẽ mọc và xóa sạch ánh sáng của ông!
Đã quá trễ để nói lời tạ lỗi,
Ở miền Trung Tây Tạng có nhiều vị vua,
Nhưng ai sánh được với vua Rinang?
Khi vua Rinang hủy diệt tu viện
Và bắt vị guru, đã quá trễ để nói lời tạ lỗi!”
Sau đó Dragchen cầm cây cung còn Dragpa cầm thanh kiếm và sắp băm nhỏ vị guru; nhưng guru vươn tay nắm lấy ngọn núi ở một bên và dời nó sang bên kia. Tất cả những tu sĩ bị thương đều được chữa lành lập tức. Tất cả những người bị giết được hồi sinh. Dù quân đội ráng hết sức để giết vị guru nhưng họ không thể làm hại ngài. Ngài bay lên bầu trời trong tư thế hoa sen và hát một bài ca:
“Các ông với thân người nhưng tâm thú vật,
Các ông với nghiệp đen tối, hãy lắng nghe tôi!
Các ông, cha và con!
Trên trái đất có người tốt hơn vua Rinang,
Đó là lý do tại sao Nangsa Obum có mặt ở đây.
Nếu các ông không đặt bông sen trong vườn, trên một ngai tòa,
Thì không có lý do gì để có nó.
Ta bối rối vì các ông ném bông sen này trên mặt đất,
Để hư thối ở một nơi dơ bẩn.
Một con ngựa mạnh mẽ thì vô dụng,
Trừ phi các ông đưa nó ra một cánh đồng.
Trừ phi các ông để nó chạy
Còn không thì chẳng có lý do gì để cho nó thực phẩm và nước.
Ta cảm thấy buồn khi nhìn một con ngựa trở nên già nua trong chuồng.
Một mũi tên với những chiếc lông đại bàng hảo hạng thì vô dụng
Nếu nó không bắn trúng mục tiêu.
Chẳng có lý do gì để có một cây cung đẹp
Nếu mũi tên cũ đi trong thùng.
Nếu thiên nữ tuyệt đẹp,
Không muốn làm Nữ Hoàng của Thủ Hộ Tài Bảo,72
Thì cho dù cô bị bắt với sợi thòng lọng của sự giàu có,
Điều đó hoàn toàn vô ích.
Thật đáng buồn khi Nangsa trở nên già nua khi sống với một thợ săn!
Những phẩm tính tốt lành của cô sẽ bị phí phạm nếu
các ông không cho cô ta thực hành Pháp.
Thân người quý báu của cô ta sẽ thành vô ích,
Cô sẽ già đi trong vương quốc của vị vua có nghiệp xấu.
Điều đó thật đáng buồn.
Ta biết nơi để bắn mũi tên và ta đã kéo dây cung,
Ta đẹp nên ta mang đồ trang sức,
Ta giàu nên ta có thể cho vay,
Ta biết thầy thuốc nên ta có thuốc,
Ta biết nhiều thực hành nên ta phô diễn cho các ông
những năng lực thần diệu của ta,
Ta sẽ không phô diễn chúng nếu không đúng thời.
Nhưng các ông, những kẻ có mười phẩm tính của quỷ ma,
Phải được thuyết phục, do đó ta phô diễn cho các ông năng lực của ta!
Giờ đây Nangsa, con phải phô diễn năng lực của con,
Nhờ đó họ sẽ trở nên tận tuỵ với con!”
Nangsa lập tức phô diễn năng lực bằng cách biến chiếc khăn choàng của cô thành đôi cánh. Cô bay vút lên không gian và hát bài ca này từ trên không:
“Các ông, cha và con và những người khác trong bọn các ông, hãy lắng nghe tôi!
Hãy nghe Nangsa Obum!
Các ông cố làm cho một sư tử tuyết thành một con chó,
Nhưng điều này không thể!
Giờ đây tôi ở trên núi tuyết phô diễn bờm của tôi!
Các ông cố điều phục một con yak hoang dã và biến
nó thành một con bò,
Nhưng điều này không thể,
Đó là lý do tại sao tôi không ở với các ông.
Giờ đây tôi phô trương cặp sừng của mình!
Các ông cố dồn gánh nặng cho con la hoang dã sống trong rừng,
Đó là lý do tại sao tôi tẩu thoát.
Giờ đây tôi đang phô diễn năng lực cho các ông.
Các ông cố làm một con chim hoang dã thành một chị gà mái,
Nhưng các ông không thể làm điều đó,
Đó là lý do tại sao tôi ở trong rừng phô trương bộ lông chim của mình.
Các ông cố làm một cầu vồng thành một miếng vải,
Điều này không thể,
Mặc dù nhìn thấy nó nhưng nó không là một vật cụ thể.
Giờ đây tôi phô bày cho các ông năng lực này.
Các ông cố biến một đám mây mịn màng thành miếng vải,
Các ông không thể nên đó là lý do tại sao tôi đang ở đây.
Giờ đây mây đang phô diễn cho các ông thấy năng lực làm mưa của nó.
Các ông cố làm một con khỉ hoang dã thành một đầy tớ,
Nhưng điều này không thể.
Giờ đây tôi phô diễn cho các ông làm thế nào tôi có thể leo!
Các ông cố làm delog Nangsa Obum thành một người vợ,
Nhưng mặc dù các ông rắc bột tsendura vào đường rẽ ngôi của tôi,73
Các ông không thể giữ tôi.
Tôi ở đây, đang bay trên các ông,
Tôi đã bay tới Tsari,
Tôi có một vài cây tre lấy từ Tsari để chứng minh cho điều đó!
Giống như một con yak cày bừa khó nhọc,
Giờ đây tôi phô diễn cho các ông thấy một luống cày.
Nếu tôi muốn bay giống một con chim đại bàng,
Tôi bay như thế!
Nếu tôi muốn bổ nhào xuống như một con chim ưng,
Tôi làm điều đó theo hướng này!
Những người có thể bay như chim thì rất hiếm,
Chỉ có Milarepa và chúng tôi.
Quân lính Rinang, đừng tạo nghiệp khủng khiếp bằng cách xúc phạm chúng tôi.
Các ông nên tạ lỗi với ngài Sakya Gyaltsen thì hơn!”
Những người lính sửng sốt khi thấy Sakya Gyaltsen và Nangsa Obum bay đây đó; họ đánh rơi vũ khí và sụp lạy trên mặt đất, và hát bài ca này:
“Lạt ma Sakya Gyaltsen vĩ đại!
Cô Nangsa Obum mỹ lệ!
Chúng con là lũ ma quỷ, quân lính Rinang;
Xin nghe bài ca tha thứ này!
Ngài, vị guru, đích thực là Cakra Sambhava!74
Cô, Nangsa, đích thực là Vajra Yogini!
Nhưng chúng con không biết điều đó, do bởi vô minh
Chúng con tưởng ngài chỉ là một guru dơ bẩn.
Chúng con tiêu hủy tu viện,
Một vài tu sĩ và sư cô bị giết,
Làm nghiệp của chúng con tệ hại hơn.
Chúng con đặc biệt bất mãn vị Lạt ma yab yum.75
Vì thế chúng con xin ngài tha thứ!
Chúng con khẩn cầu ngài làm guru của chúng con!
Chúng con dồi dào ác nghiệp và nghèo nàn thiện
nghiệp như những kẻ hành khất!
Tất cả những cuộc đời của chúng con tiêu phí trong việc tích tập ác nghiệp,
Nhưng xin đừng ném chúng con xuống các cõi thấp lần nữa!
Chúng con hứa không bao giờ làm những việc như thế nữa.
Cho dù chính mạng sống của chúng con bị đe dọa!
Xin ban cho chúng con một vài giáo lý dễ hiểu và dễ thực hành!”
Sakya Gyaltsen và Nangsa Obum cầu nguyện từ đáy lòng họ rằng nghiệp xấu của những nhà quý phái và quân đội sẽ được tịnh hóa:
“Đối với những người đã làm điều sai trái,
Thì sự hối lỗi như mặt trời mọc trong bóng tối,
Điều này thật phi thường!
Thậm chí những kẻ với nghiệp xấu nhất vẫn có thể sửa đổi nó,
Nếu họ tịnh hóa với bốn phương pháp.76
Nếu các ông muốn chuyển hóa những hành vi của
mình sau việc này, hãy lắng nghe tôi!
Guru thì như một cánh đồng có mọi thứ.
Thân người quý báu như một bông hoa hiếm,
Khó tìm gặp được!
Việc thực hành Pháp như đi tìm viên ngọc như ý.
Cái chết giống như sấm chớp,
Cuộc đời như ngọn đèn trong gió
Dễ đổ như một ngôi sao sa.
Sinh ra và chết đi thì như mặt trời mặt trăng mọc và lặn!
Khi các ông chết tâm thức ra khỏi thân,
Giống như một sợi tóc được rút ra từ bơ.
Tài sản của các ông như kho mật ong: nó có thể bị lấy mất!
Bằng hữu và gia đình thì như những người các ông gặp trong nơi họp chợ.
Quyến thuộc thì như những người đồng hành đi qua cầu.
Nghiệp là cái bóng của các ông,
Mười tám địa ngục là ngục tù của Thần Chết.
Cõi ngạ quỷ thì như thung lũng của người nghèo.
Các súc sinh sống trong sự làm việc quá sức.
Như những vì sao ban ngày,
Tâm của súc sinh thì như những giấc mơ của một người câm điếc.
Các a tu la sân hận như những con rắn.
Thân tướng đẹp đẽ của những vị trời
Thì như những châu ngọc đi mượn.
Thậm chí cõi người giống như một thành phố của ma quỷ ăn mùi hôi thối,
Họ không bao giờ thoả mãn.
Tất cả sáu loài tràn ngập đau khổ,
Niết bàn thì như được hạnh phúc,
Và không chia sẻ nó với bất kỳ ai.
Tiểu thừa giống như một thiếu nữ.
Đại thừa mạnh mẽ như một người uy lực.
Các Kinh điển là hạt giống của các thừa.
Kim Cương thừa như trái cây.
Vì thế nếu các ông muốn giải thoát,
Trước hết các ông cần gặp một Thiện tri thức,
Các ông phải sùng mộ và noi gương vị này.
Thân người thì khó đạt được;
Cho dù các ông có được nó,
Nó là đối tượng của vô thường.
Giờ đây các ông nên thực hành Pháp.
Hãy nghĩ tưởng về Sinh tử và nỗi khổ của nó,
Những kinh nghiệm của riêng các ông và sự vô nghĩa của chúng.
Chớ có bám luyến.
Hãy nghĩ tưởng rằng tốt đẹp biết bao được ở trong cánh đồng Pháp.
Hãy sử dụng ba cách học,77
Rồi rời Tiểu thừa và tiến vào Kim Cương thừa,
Giống như những trưởng tử của Đức Phật đã đạt được Niết Bàn,
Hãy thực hành Sáu Ba la mật78 và Bốn Cốt tuỷ của sự Hoà hợp!79
Rồi các ông phải có một tâm thức mạnh mẽ,
Để đưa tất cả chúng sinh tới các cõi Phật.
Đó là lý do vì sao các ông phải khởi hành.
Hãy nhớ tưởng những người các ông đã đánh đập,
Và nghiệp của các ông thực sự xấu ra sao.
Cũng có con đường của yogi,
Một con đường siêu xuất có thể đưa các ông tới giải thoát trong một đời.
Các ông nên đạt bốn sự nhập môn80 (quán đảnh),
Và tự chuẩn bị để bước vào Kim Cương thừa.
Hãy thực hành các giai đoạn quán tưởng và hậu-quán tưởng.
Khi các ông thấu suốt mọi điều này,
Các ông sẽ hợp nhất với Đức Vajradhara (Kim Cương Trì).”81
Tất cả những người hiện diện nguyện sẽ làm như cô nói. Những người ít nghiệp xấu như cha con vua Dragchen nhìn thấy vị guru như Cakra Sambhava và Nangsa như Vajra Yogini. Vương quốc Rinang được ban cho con trai của Nangsa, khi đó mười lăm tuổi. Dragchen và Dragpa Samdrub rời bỏ đời sống thế tục để thực hành Pháp. Ngài Sakya Gyaltsen hứa rằng nếu họ giữ vững lời nguyện tuân theo Giáo Pháp của họ thì họ sẽ không chết trước khi đạt được kết quả của sự thực hành.
Nangsa sống trong núi non và không chỉ bay trên không mà còn để lại dấu vết bắp đùi và dấu chân ở nhiều nơi như thể đá là bơ. Dragpa Samdrub trở về Rinang để tấn phong con trai của ông rồi trở về với Ani Nyemo và ở với Nangsa và Sakya Gyaltsen. Lhau Darpo trị vì theo Chánh Pháp thật đạo đức. Mọi người trong vương quốc tuân theo Giáo Pháp rất cẩn trọng. Dragchen và Dragpa Samdrub, Nangsa và Sakya Gyaltsen cùng tất cả đệ tử của ngài có nhiều lương thực và đầy đủ vật dụng cần thiết để nhập thất. Họ đã tích tập công đức cho hạnh phúc của đời sau và sử dụng mọi vật chất với lòng bi mẫn.