Lời giới thiệu
PHẬT là chân lý phổ quát, và Phật giáo là con đường để nhận ra chân lý đó. Phật là chân tánh, sự mở trống (rỗng rang), và trạng thái giác ngộ của thế giới, “như nó là.” Mọi sự xuất hiện có tính chất hiện tượng chỉ là năng lực hiển lộ của chính chân tánh đó, “như chúng xuất hiện.” Nếu chúng ta nhận ra chân tánh của riêng ta, sự an bình tối thượng, sự mở trống, nhất như, và giác ngộ, thì chúng ta là tất cả chư Phật. Khi đó mọi hiện tượng sẽ tự nhiên xuất hiện như cõi tịnh độ của Phật, năng lực của chân tánh.
Phật giáo là những giai đoạn của con đường để chứng ngộ Phật quả, và chính là những giáo lý truyền cảm hứng cho ta đạt tới sự chứng ngộ đó.
Đức Phật Shākyamuni (Thích Ca Mâu Ni) (thế kỷ thứ năm-thứ tư trước Công nguyên) là một trong nhiều bậc đã thành Phật nhờ con đường của Phật giáo trong thời đại này của chúng ta. Ngài là Đạo sư đã truyền bá con đường thường được gọi một cách phổ thông là Phật giáo. Nhưng Ngài không phải là vị Phật duy nhất, và Phật giáo không chỉ giới hạn trong những lời dạy của Ngài.
Các tantra (Mật điển) là những Kinh điển bí mật nguyên thủy của Phật giáo. Chúng bao gồm nhiều tantra Nyingma, chẳng hạn như các tantra của giáo khóa
Longchen Nyingthig. Các tantra này không nhất thiết là những điều được ghi chép lại từ những lời dạy của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Tuy nhiên, các tantra là những giáo lý Phật giáo bởi chúng xuất phát từ các thân Phật, và chúng mang lại những phương pháp dẫn chúng ta tới Phật quả. Ngoài ra, các tantra do các môn đồ chứng ngộ của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khám phá và phù hợp với giáo lý của Ngài.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
ĐỨC PHẬT Shākyamuni (Đức Phật Thích Ca Mâu Ni), Đấng Toàn Giác, đản sinh hơn hai mươi lăm thế kỷ trước giữa những dấu hiệu kỳ diệu, trong vườn Lumbinī (Lâm Tỳ Ni), ngày nay thuộc về Nepal. Thân phụ của Ngài là Vua Shuddhohana (Tịnh Phạn) và thân mẫu là Hoàng hậu Māyādevī (Ma Da) thuộc dòng Shākya (Thích Ca). Ngài được đặt tên là Siddhārtha (Tất Đạt Đa) và chẳng bao lâu Ngài thông thạo nhiều loại kiến thức và tinh thông nhiều nghệ thuật để trở thành bậc trị vì trong tương lai của vương quốc. Cuối cùng, vị phối ngẫu của Ngài là Công chúa Yashodharā (Da Du Đà La) hoài thai con trai của ngài, Thái tử Rāhula (La Hầu La).
Thái tử Siddhārtha sống trong những lạc thú và xa hoa thế tục tột đỉnh có thể có được trong thời đại của ngài. Thậm chí thân phụ ngài còn cố gắng ngăn cản không để Ngài nhìn thấy hay biết về những nỗi cơ cực của dân chúng. Nhưng Siddhārtha nhận ra rằng trong thế gian này không ai có được niềm vui chân thật và không có gì ngoài nỗi khổ đau, nỗi khổ tràn ngập của tuổi già, bệnh tật, cái chết, và những thống khổ vô tận. Mọi sự sinh ra đều kết thúc trong cái chết, mọi tụ hội đều kết thúc trong phân ly, và mọi sự tràn trề niềm vui sẽ kết thúc trong đau khổ. Mọi hoạt động thế tục, dù trực tiếp hay gián tiếp, chỉ gây nên đau khổ của sự không hài lòng. Tất cả những đau khổ này được bắt rễ trong cách tâm thức tiếp cận sai lầm khi bám chấp vào cái “ngã,” hừng hực những cảm xúc sân hận và dục vọng, và thèm muốn niềm vui khổ đau, như khi khao khát cảm giác của việc gãi ngứa. Siddhārtha quyết định tìm ra phương pháp giải thoát khỏi luân hồi đau khổ và dẫn dắt những người khác, những bà mẹ chúng sinh, tới sự chứng ngộ giải thoát và giác ngộ.
Năm Ngài hai mươi chín tuổi, sau khi được thân phụ miễn cưỡng cho phép Ngài từ bỏ đời sống thế tục, Ngài trở thành một người khổ hạnh lang thang không nhà. Ngài tìm đến nhiều hiền nhân nổi tiếng ở Ấn Độ và thiền định theo lời giảng dạy của họ. Ngài đã thiền định trong khi tuân giữ những khổ hạnh khắt khe trong sáu năm bên bờ Sông Nairajnanā (Ni Liên Thiền). Những sự theo đuổi này đã giúp ngài phát triển những tầng thiền định cao, sự an bình, và hoan hỉ, nhưng không đưa Ngài tới mục đích tối thượng mà Ngài đang tìm kiếm: hoàn toàn thoát khỏi việc bám chấp vào bản ngã, bởi tất cả những thành tựu đó vẫn còn sót lại ít nhiều sự chấp ngã.
Năm ba mươi lăm tuổi, sau khi nhận ra rằng khổ hạnh thân xác không phải là một phương tiện hữu hiệu để đạt được chân lý, Siddhārtha uống một ít sữa nguyên chất. Sau khi tự nuôi dưỡng bản thân, Ngài đi tới Vajrāsana (Kim Cương Tòa), ngày nay được gọi là Bodhgayā (Bồ Đề Đạo Tràng) ở bang Bihar, Ấn Độ. Ở đó, vào đêm trước ngày trăng tròn của tháng Vaishākha (Tháng Tư/Năm), Ngài an tọa trong tư thế thiền định dưới một cây cọ (ashvattha) (từ đó được gọi là Cây Bồ Đề) và nhập định.
Sau khi trời chạng vạng tối, những lực lượng quỷ ma tập trung trước mặt Ngài với những sự hăm dọa và cám dỗ để ngăn trở không cho Ngài đạt được Giác ngộ. Các lực lượng quỷ ma như những đám mây lớn gầm lên những lời đe dọa và đổ xuống những trận mưa vũ khí. Các trinh nữ đẹp như tiên xuất hiện và nhảy múa trước ngài để khuấy động những giác quan của ngài. Nhưng không điều gì lay chuyển được tâm Ngài, và Ngài an trụ trong thiền định về lòng từ ái. Trận mưa vũ khí trở thành mưa hoa, và mọi sự xuất hiện dần dần tan biến như một ảo ảnh.
Sau đó, vào canh một, Ngài nhập bốn tầng thiền định (tứ thiền) (bSam gTan bZhi). Cấp độ (tầng) đầu tiên (Sơ thiền) là thiền định nhất tâm với hỉ (dGa’) và lạc (bDe), lìa bỏ những cảm thọ của dục giới, đạt được cấp độ này nhờ nghĩ tưởng (rTog) và phân tích (dPyod) những cảm thọ đó là thô lậu và tiêu cực. Cấp độ thứ hai (nhị thiền) là thiền định nhất tâm trong tâm trong trẻo với hỉ và lạc, lìa bỏ những tư tưởng và sự phân tích những cảm thọ như trong cấp độ đầu tiên. Cấp độ thứ ba (tam thiền) là thiền định nhất tâm với lạc, lìa bỏ việc cảm thấy hỉ lạc trong các cảm thọ như trong cấp độ thứ hai nhờ sự xả bỏ (bình thản), hồi tưởng, và tỉnh giác. Cấp độ thứ tư (tứ thiền) là thiền định nhất tâm với sự xả bỏ, bằng phương tiện của chánh niệm thuần tịnh, lìa bỏ những cảm xúc về lạc của cấp độ thứ ba nhờ nhận ra nó quá thô tháo.
Sau đó, với tâm hoàn toàn an tịnh, tự chủ, chói sáng, nhu nhuyễn, và trong trẻo có được nhờ bốn tầng thiền định, Ngài tập trung vào việc phát triển ba trạng thái của sự tỉnh giác (Rig Pa Gsum). (1) Ngài đạt được “thiên nhãn thông” thấu suốt vô vàn chi tiết về những thăng trầm của tất cả chúng sinh cùng với nghiệp của họ, nguyên nhân đã tạo nên những thăng trầm đó. (2) Ngài đạt được “túc mạng thông,” là khả năng thấu suốt vô số đời quá khứ của bản thân Ngài và những người khác và những điều xảy ra và kinh nghiệm của những cuộc đời đó với đầy đủ chi tiết. (3) Kế đó, vào sáng sớm ngày trăng tròn, Ngài đạt được “lậu tận thông” bằng cách suy tưởng và chứng ngộ bản chất của “mười hai duyên khởi” (thập nhị nhân duyên) (rTen ‘Brel bChu gNyis), định luật của cuộc đời.
Trong giai đoạn này, ngài đã nhận ra rằng do bởi (1) vô minh (không giác ngộ) nên sinh ra (2) hành, là sự hình thành của nghiệp (hành động theo ý chí), do hành sinh ra (3) thức, do thức sinh ra (4) danh sắc (những hiện tượng khách quan thuộc tinh thần và vật lý), do danh sắc sinh ra (5) lục nhập, là năng lực của sáu giác quan, lục nhập sinh ra (6) xúc, là sự tiếp xúc (của các đối tượng, giác quan, và những ứng dụng của chúng), xúc sinh ra (7) thọ, thọ sinh ra (8) ái (sự tham muốn), ái sinh ra (9) thủ (sự bám chấp), thủ sinh ra (10) hữu, là sự trở thành (hiện hữu), do hữu sinh ra (11) sinh, bệnh, (12) già, đau khổ, và chết. Khi đó Ngài cũng chứng ngộ định luật của tiến trình đảo ngược mười hai duyên khởi (thập nhị nhân duyên). Do chấm dứt vô minh nên hành (sự hình thành của nghiệp) chấm dứt, và v.v..
Ngài đã chứng ngộ bốn chân lý cao quý (Tứ Diệu đế) (‘Phags Pa’i bDen Pa bZhi) của mỗi một trong mười hai duyên khởi. Ngài thấu suốt vô minh là gì, đâu là nguyên nhân của vô minh, đâu là sự chấm dứt vô minh, và đâu là con đường của sự chấm dứt vô minh, và v.v..
Ngài đã chứng ngộ bốn chân lý cao quý (Tứ Diệu Đế). (1) Ngài đã chứng ngộ chân lý về khổ đau (khổ đế), nhận ra rằng toàn bộ sự hiện hữu thế tục không có gì ngoài một chuỗi khổ đau. (2) Ngài đã chứng ngộ chân lý về nguyên nhân của khổ đau (tập đế), đó là nghiệp với những thế lực cảm xúc bắt rễ trong sự tham muốn (ái) và bám chấp (thủ) vào bản ngã. (3) Ngài đã chứng ngộ chân lý về sự chấm dứt đau khổ (diệt đế), sự thành tựu Niết bàn, sự giác ngộ. (4) Ngài đã chứng ngộ chân lý về con đường chấm dứt đau khổ (đạo đế), sự tu tập bát chánh đạo, tức là chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh hạnh, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, và chánh định.
Sau đó, trước lúc bình minh, ngài đã nhập định như kim cương, kiên cố, bởi không có sự ngăn trở nào có thể hủy diệt được nó; vững chắc, bởi không bị lay động bởi những niệm tưởng; có bản chất nhất như, bởi mọi sự trong đó đều đồng một vị (nhất vị); và trùm khắp, bởi nó là chân tánh của mọi sự hiện hữu. Trong một khoảnh khắc duy nhất ngài hết sạch ngay cả những dấu vết vi tế nhất của các che chướng mà ngài đã nuôi dưỡng trong bản thân, hoàn thành sự chứng ngộ ba trạng thái tỉnh giác, và trở thành đấng Toàn giác, Đức Phật. Ngài bay vút lên không trung tới một độ cao bằng bảy cây tal (cây cọ) và an tọa ở đó, ngài tuyên bố:
Hôm nay, mọi sự tái sinh [đối với ta] đã chấm dứt.
Con đường đã hoàn tất.
Không còn điều gì để theo đuổi nữa. Và:
Ta đã chứng ngộ một Giáo Pháp như-cam lồ.
Nó là một sáng tỏ trong trẻo (tịnh quang): không được tạo tác, sâu xa, an bình, và vượt mọi nỗ lực dụng công. Trong bốn mươi lăm năm còn lại của đời Ngài, Đức Phật đã du hành không mỏi mệt với đôi chân trần và sống bằng cách khất thực mỗi ngày một bữa. Với tình thương và trí tuệ, Đức Phật đã giảng dạy phương pháp để đạt được Phật quả và phụng sự Tăng đoàn của Ngài, là cộng đồng tăng, ni và những người sùng mộ, và tất cả những người Ngài gặp và những người đến với Ngài. Trong thời gian đó, Đức Phật đã giảng dạy những con đường khác nhau cho những người có tính khí dị biệt.
Theo các truyền thống Mahāyāna (Đại thừa) và Vajrayāna (Kim Cương thừa) của Phật giáo thì Đức Phật không chỉ giảng dạy Hīnayāna, Phật giáo thông thường hay chính thống (Thanh Văn thừa) mà cũng dạy Mahāyāna, Phật giáo tiến bộ (Đại thừa), và Vajrayāna, Phật giáo bí truyền (Kim cương thừa).
Giáo lý Hīnayāna (hay Theravādin) của Đức Phật được gọi là Tripitaka (Tam Tạng). Đó là Vinaya (Luật tạng), giảng dạy về giới luật đạo đức của cộng đồng tu sĩ và những cư sĩ sùng mộ; Abhidharma (Luận tạng), dạy về trí tuệ của tâm lý học và siêu hình học Phật giáo; và Sūtra (Kinh tạng), dạy về những thiền định và những bộ Kinh khác nhau.
Bài thuyết pháp đầu tiên của ngài là về bốn chân lý cao quý (Tứ Diệu Đế). Giáo lý này giảng nghĩa toàn bộ sự phát triển của chu kỳ tinh thần và vật lý của thế gian và chu kỳ đảo ngược lại. Ngài đã giảng dạy giáo lý này cho năm đệ tử-tu sĩ đầu tiên của Ngài tại Vườn Lộc Uyển, hiện nay được gọi là Sārnāth, gần Vārānasī (Ba La Nại) ở Ấn Độ. Đức Phật nói:
Hỡi các tu sĩ, có bốn chân lý cao quý. Đó là khổ (khổ đế), nguyên nhân của khổ (tập đế), sự chấm dứt nỗi khổ (diệt đế), và con đường chấm dứt nỗi khổ (đạo đế). (1) Chân lý cao quý của đau khổ (Khổ đế) là gì? Đó là nỗi khổ của sinh, lão, bệnh, tử, phải xa lìa những điều mong muốn, phải gặp những điều không ưa thích, và không có được những điều mình tìm kiếm. Tóm lại, năm uẩn của sự tham luyến là khổ. Điều này được gọi là khổ đế. (2) Chân lý cao quý của nguyên nhân đau khổ (Tập đế) là gì? Đó là sự tham muốn gây nên sự tái hiện hữu (hay lại trở thành chúng sinh) và những điều được đi kèm theo bởi dục vọng đam mê, và những gì tìm thấy toàn bộ niềm vui trong [hay dính mắc vào] cái này và cái kia. Điều này được gọi là nguyên nhân của đau khổ (tập đế). (3) Chân lý cao quý của sự chấm dứt đau khổ (diệt đế) là gì? Sự chấm dứt đau khổ là sự hoàn toàn chấm dứt và hoàn toàn thoát khỏi dục vọng, tham muốn, là cái tạo nên sự tái-hiện hữu và là cái được đi kèm bởi dục vọng đam mê, và là cái tìm kiếm, tạo ra, và hết sức ham thích cái này và cái kia. (4) Con đường dẫn tới sự chấm dứt đau khổ (đạo đế) là gì? Đó là Bát chánh đạo, bao gồm chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh hạnh, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, và chánh định.
Sự thành tựu những quả vị của Phật giáo tùy thuộc vào những nỗ lực của bản thân cá nhân hành giả, và nhiệm vụ của Đức Phật chỉ là giảng dạy và gây truyền cảm hứng cho họ. Đức Phật nói:
Ta đã chỉ ra con đường giải thoát.
Các con nên hiểu rằng sự giải thoát của các con tùy thuộc vào chính các con. Tinh túy của việc tu tập Phật giáo là chỉ hành động với giới luật đúng đắn và điều phục tâm của chính mình bằng Bát Chánh Đạo. Đức Phật nói:
Không làm điều ác. Thực hành mọi điều thiện.
Điều phục tâm mình. Đó là lời Phật dạy. Nếu chúng ta có thể điều phục tâm của ta, mọi hành vi của thân ta sẽ tự nhiên có giới hạnh nghiêm minh. bởi tâm dẫn dắt tất cả. Đức Phật nói:
Tâm là yếu tố chính, và nó dẫn dắt mọi hành động.
Với một tâm thức thanh tịnh, dù con nói hay làm điều gì
Sẽ chỉ mang lại hạnh phúc.
Nó giống như một cái bóng luôn đi theo sau. Khi chúng ta thấu suốt và chứng ngộ chân lý của cuộc đời và bản tánh của tâm ta, chúng ta sẽ thoát khỏi mọi đau khổ. Đức Phật đã nói:
Bằng trí tuệ, khi các con nhận ra rằng mọi sự duyên hợp
Thì vô thường,.. đau khổ.. và vô ngã,..
Các con sẽ không bao giờ bị thương tổn bởi bất kỳ đau khổ nào.
Đó là con đường chân chính! Đối với các đệ tử của Mahāyāna (Đại thừa), cả loài người lẫn những phi-nhân, Đức Phật đã truyền dạy giáo lý Mahāyāna chẳng hạn như “trí tuệ siêu việt” (trí tuệ ba la mật) và “tinh túy Phật” trên Núi Gridhrakūta (Đỉnh Linh Thứu) ở Rajgir (Rājagriha, Vương Xá) ở Ấn Độ và ở nhiều nơi khác. Bởi chưa tới lúc để truyền bá giáo lý Mahāyāna nên giáo lý này chỉ được ban cho một số ít người. Nhiều thế kỷ sau này, giáo lý Mahāyāna được khám phá cho công chúng bởi những Đạo sư giữ gìn các giáo lý đó và cũng bởi nhiều vị đã mang giáo lý trở về từ những xứ sở và hệ thống thế giới khác nhau.
Hầu hết các giới luật Mahāyāna được đặt trên Hīnayāna, hay những giáo lý Phật giáo thông thường, nhưng thái độ và cái thấy (kiến, quan điểm) thì khác nhau. Lòng đại bi cũng là một thực hành quan trọng trong Phật giáo thông thường, nhưng ý hướng nhận lãnh toàn bộ trách nhiệm vì những người khác hay ý hướng trụ thế cho tới khi mỗi bà mẹ chúng sinh đều được giải thoát được gọi là Bồ đề tâm, tâm giác ngộ. Tu tập sáu ba la mật với Bồ đề tâm là cách tiếp cận độc nhất vô nhị của Mahāyāna.
Đối với cái thấy, ý niệm về không (tánh Không) là cốt lõi của giáo thuyết Đại thừa. Trong ý nghĩa tuyệt đối hay chân lý tối thượng thì mọi hiện tượng là tánh Không, và trên bình diện tương đối hay theo chân lý quy ước thì mọi sự xuất hiện nhờ sự duyên khởi, giống như một giấc mộng, ảo ảnh, hay sự phóng chiếu. Vì thế hai chân lý thì hợp nhất, và chúng là bản tánh của mọi sự mà không có chút mâu thuẫn nào. Tánh Không không phải là sự phủ định hay không có gì hết, mà là một sự hoàn toàn mở trống (rỗng rang) và thoát khỏi tâm thức nhị nguyên, những sự định danh có tính chất khái niệm, hay những ý niệm về mọi sự cực đoan, có (hữu) hay không (vô), cũng có cũng không hoặc không có không không. Trí tuệ nguyên sơ, là tánh Không và sự nhận ra tánh Không, đồng thời thấu suốt mọi sự mà không có giới hạn nào. Trí tuệ này cũng được biểu tượng như bà mẹ, suối nguồn hay nơi an trú của tất cả chư Phật
Về mặt tu tập, trước tiên những môn đồ của Đại thừa sử dụng tâm thế tục của họ và những niệm khởi trong tâm như phương tiện để đạt được Phật quả, và nhờ tiến triển qua tiến trình đó, cuối cùng họ đạt được Phật quả. Đức Phật nói:
Chư vị Bồ Tát đã đạt được trí tuệ chứng ngộ [sự hợp nhất] của sự duyên khởi và bản tánh của tánh Không bất sinh bất diệt,
Giống như những tia sáng của mặt trời không bị mây che xua tan bóng tối,
Tiêu diệt vô minh và thành tựu [Phật quả] hiện diện tự nhiên. Và:
Con lễ lạy bà mẹ vĩ đại của chư Phật ba thời,
Tánh Không, là phạm vi của trí tuệ tự-tỉnh giác,
Thoát khỏi những sự định danh, tư tưởng và những biểu lộ,
Và bất sinh và bất diệt, như không gian. Và:
Sắc là Không. Không là sắc.
Không không lìa sắc.
Sắc chẳng lìa Không. Đối với các môn đồ Kim Cương thừa, thính giả trong loài người và phi nhân mà tâm thức đã thuần thục một cách khác thường, Đức Phật đã ban những quán đảnh hay nhập môn (abhisheka) và các giáo lý tantra, giáo lý bí mật Guhyasamāja và Kālachakra và v.v.. tại Dhānyakataka ở Odddiyāna, và những nơi khác, bằng cách tự biến thành hình thức Báo thân, sự hiển lộ chân thực của Đức Phật. Nhiều thế kỷ sau, khi đã đúng thời, những giáo lý đó được mang trở lại từ những xứ sở khác nhau và được tiết lộ cho công chúng. Ngoài ra, nhiều tantra được chư Phật tiết lộ cho nhiều bậc lão thông chứng ngộ vĩ đại.
Những giáo lý tantra không chỉ là những lời giảng dạy mà còn chuyên chở một sự trao truyền năng lực bí mật, sự chứng ngộ trí tuệ nguyên sơ. Sự trao truyền này xảy ra trong lễ quán đảnh (trao quyền) cho đệ tử đi vào việc học tập và chứng ngộ tantra. Kế đó đệ tử duy trì sự tương tục của trao truyền đó, và điều đó được gọi là sự tuân giữ samaya, giới nguyện bí mật. Với samaya không bị đứt đoạn, đệ tử tu tập hai giai đoạn. Giai đoạn phát triển tẩy sạch sự tham luyến vào các hiện tượng, thân, và tâm. Trong giai đoạn đó, với nỗ lực trong tâm, ta quán tưởng thế giới, thân, và tâm như mạn đà la của Bổn Tôn, xuất hiện nhưng trống không, để tịnh hóa sự sinh và tử và trạng thái trung ấm. Giai đoạn toàn thiện hoàn thành những thành tựu năng lực, gia hộ và chứng ngộ. Trong giai đoạn này, nhờ đưa khí/năng lực và tâm vào kinh mạch trung ương, ta chứng ngộ và hoàn thiện trí tuệ, là cái gì hiện diện bẩm sinh, trùm khắp và thoát khỏi những tư tưởng. Những tu tập Mật thừa hiện thân một thiện xảo phi thường của sự toàn thiện. Chẳng hạn như, chúng hoàn thiện tâm ta như sự hợp nhất của sự chứng ngộ tánh Không và sự xuất hiện của tất cả như trí tuệ của đại lạc (hay lòng bi mẫn) và như ba thân Phật. Tu tập Mật thừa mang lại sự thành tựu Phật quả ngay trong đời này. Đức Phật nói:
Giáo lý của một vị hộ trì-kim cương [trantra]
Được đặt nền trên hai giai đoạn.
Đó là giai đoạn phát triển và giai đoạn toàn thiện. Và:
Sự bất khả phân [hợp nhất] của tánh Không và lòng bi mẫn
Được gọi là Tâm Giác ngộ. Ở tuổi tám mươi, vào ngày trăng tròn của tháng Vaishākha (Tháng Tư/Năm), an tọa dưới cây
shāla (
Shorea robusta) tại Kushinagara (Câu Thi Na) ở miền bắc Ấn Độ, Đức Phật tuyên bố với các môn đồ của ngài:
Các tu sĩ. Ta sắp nhập Niết bàn. Đừng sầu não về điều đó. Nếu các con có vấn đề gì thì hãy hỏi ta để không ai phải hối hận vì đã bỏ lỡ một cơ hội như thế.
Ngài lập lại câu này ba lần, nhưng tất cả đều im lặng. Sau đó Đức Phật cởi thượng y và để lộ bộ ngực vàng của ngài, lập đi lập lại rằng mọi người hãy chiêm ngưỡng thân tướng của Đức Phật, là điều rất hiếm được chứng kiến. Mọi người cảm thấy bình an nhờ thiền định bằng cách chiêm ngưỡng không chớp mắt thân tướng thuần tịnh như vàng ròng của Đức Phật. Sau đó, một lần nữa, Ngài mặc y và nằm nghiêng về bên phải, Ngài nhập đại niết bàn, sự hoàn toàn chấm dứt khổ đau, an bình tối thượng, Phật quả. Ngài rời bỏ thân tướng như suối nguồn của sự gia hộ, hồi tưởng các giáo lý và sự hiện diện của Đức Phật.
SAU ĐỨC PHẬT
Sau Đức Phật, bảy vị trưởng lão, đáng chú ý nhất là Mahākāshyapa (Đại Ca Diếp) và Ānanda (A Nan); hai bậc xuất chúng và sáu Pháp bảo của Mahāyāna (Đại thừa), đáng kể nhất là Nāgārjuna (Long Thọ) và Asanga (Vô Trước); tám mươi bốn đại thành tựu giả của Kim Cương thừa, đáng kể nhất là Saraha và Nāropa; và tám trì minh vương, đáng kể nhất là Prahevajra và Manjushrīmitra, đã duy trì và truyền bá Phật pháp, cả Kinh điển lẫn Mật điển, ở Ấn Độ và đưa chúng tới hầu hết mọi nơi trong lục địa châu Á.
Khoảng năm thế kỷ sau Đức Phật, Giáo lý Đại thừa bắt đầu được truyền bá rộng rãi. Sau đó, mười thế kỷ sau Đức Phật, giáo lý Kim Cương thừa bắt đầu được truyền bá rộng rãi ở Ấn Độ, nhờ ảnh hưởng của Đại thừa. Vì thế Phật giáo dần dần phát triển thành hai trường phái chính: Hīnayāna, Phật giáo chính thống, và Mahāyāna, Phật giáo tiến bộ (Đại thừa). Hīnayāna được truyền bá sang các quốc gia phía nam và Mahāyāna sang các quốc gia phía bắc của châu Á. Sự phát triển này đã trải qua những biến đổi suốt các thời đại, nhưng từ lúc bắt đầu cho tới thế kỷ hai mươi thì sự phân bổ đại khái như sau: Phật giáo Mahāyāna, theo Kinh điển Phạn ngữ, đã được truyền bá ở Nepal, Trung Á, Trung quốc, Hàn quốc, Java, Sumatra, Nhật Bản, Tây Tạng, Bhutan, và Mông Cổ. Phật giáo Hīnayāna, hay Theravādin (Phật giáo nguyên thủy), theo Kinh điển Pāli, đã được truyền bá tại Sri Lanka, Miến Điện, Thái Lan, Cam Bốt (Cao Miên), và Lào. Tại Việt Nam, cả Hīnayāna lẫn Mahāyāna đều được thực hành.
Thật không may, vào thế kỷ mười hai, bản chất bất bạo động của Phật giáo đã khiến nó biến mất khỏi Ấn Độ, nơi sản sinh ra Phật giáo, trước sự thống trị của người theo Ấn giáo, và sau này, bởi những cuộc xâm lược của người theo Hồi giáo. Tuy nhiên, Phật giáo vẫn còn phát triển tại Sri Lanka, Thái Lan, Miến Điện, Nepal, Đông dương, Trung quốc, Nhật Bản, Tây Tạng, Bhutan, Mông Cổ, và những quốc gia khác ở Châu Á. Ngày nay, trong thế kỷ hai mươi, Phật giáo được đưa trở lại Ấn Độ và đã phát triển đến nhiều nơi khắp địa cầu.
Một trong những thiện xảo độc nhất vô nhị của Phật giáo là sự hiện diện của nhiều cách tiếp cận trong cách nhìn (quan điểm) và việc tu tập. Lankāvatāra-sūtra (Kinh Lăng Già) nói: “Trong một chừng mực nào đó các tư tưởng vẫn tiếp tục lóe lên cho các chúng sinh, không có giới hạn đối với các thừa hay cách tiếp cận Giáo Pháp.” Trong thế giới có vô số chúng sinh, mỗi người trong đó có một bản tánh và khả năng khác nhau. Vì thế cần phải có những con đường khác nhau để họ thực hành phù hợp với bản tánh của họ. Nhưng không thể giảng dạy nhiều thừa như số chúng sinh được. Tuy nhiên Đức Phật đã ban nhiều loại giáo lý Kinh điển và tantra (Mật điển) khác nhau cho những người hạ căn, trung căn và thượng căn, tất cả những giáo lý ấy đều dẫn tới cùng một mục đích. Tùy thuộc vào những phương pháp khác nhau mà ta theo đuổi, ta có thể nhanh chóng đạt được mục đích hay sau khi thực hành lâu dài.
Để phân biệt tính chất của ba thừa, người ta đưa ra một ví dụ là một loại cây độc, tượng trưng cho những ô nhiễm của tham, sân, và si. Trong Hīnayāna một hành giả né tránh sự nguy hiểm của chất độc. Trong Mahāyāna, hành giả tiêu diệt chất độc bằng những cách đối trị. Trong Vajrayāna (Kim Cương thừa), hành giả chuyển hóa chất độc thành trí tuệ siêu việt.